NÓI LẤY ĐƯỢC HAY NÓI ĐỂ MÀ NÓI
Tô Văn Trường
Có thể nói dự án bô xít Tây Nguyên là một trong những dự án gây tranh cãi nhiều nhất. Nó ra đời, bất chấp nhiều ý kiến phản biện rất khoa học và tâm huyết, kể cả lời cảnh báo khuyên can của những bậc công thần của đất nước. Rồi cái kiểu “làm lấy được” ấy đã lập tức gây hậu quả tai hại về kinh tế cũng như môi trường. Bây giờ thì lại có những ý kiến ngụy biện bảo vệ cho những sai lầm của dự án theo kiểu “nói lấy được” hay “nói để mà nói”!
Có thể nói dự án bô xít Tây Nguyên là một trong những dự án gây tranh cãi nhiều nhất. Nó ra đời, bất chấp nhiều ý kiến phản biện rất khoa học và tâm huyết, kể cả lời cảnh báo khuyên can của những bậc công thần của đất nước. Rồi cái kiểu “làm lấy được” ấy đã lập tức gây hậu quả tai hại về kinh tế cũng như môi trường. Bây giờ thì lại có những ý kiến ngụy biện bảo vệ cho những sai lầm của dự án theo kiểu “nói lấy được” hay “nói để mà nói”!
Tôi mới đọc bài trả lời phỏng vấn đăng
trên báo Một Thế Giới của tiến sĩ Nguyễn Văn Lạng Chủ tịch Hội Thông
tin Khoa học và Công nghệ Việt Nam, (nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học và
Công nghệ), thấy có một số điểm cần nói lại cho rõ để rộng đường công
luận.
TS Lạng đánh giá : “Tập
đoàn than khoáng sản TKV đã xây 2 hồ ở Tân Rai với quy mô mỗi hồ khoảng
1 triệu tấn bùn và mỗi lần đầu tư khoảng trên 300 tỉ đồng. Những hồ này
chịu được tất cả các áp lực, kể cả với động đất khoảng trên 7-8 độ
richter, cho nên khả năng vỡ đập, vỡ hồ là rất khó. Vỡ đập
thì không thể, nhưng tràn bùn thì hoàn toàn có thể, cho nên giải pháp
đặt ra là phải chống tràn bùn bằng cách theo dõi thời tiết và có biện
pháp xả bùn đỏ một cách an toàn để không bị tràn, đảm bảo môi trường và
cuộc sống của người dân.
Đây là giai đoạn
trước mắt, còn trong vài năm tới, khi nhà máy luyện bùn đỏ thành thép,
thành gang, thành sắt ra đời thì nguy cơ tràn, vỡ đập bùn đỏ sẽ không
còn, vì khi đó bùn đỏ đã trở thành nguyên liệu và Nhà nước sẽ tiết kiệm
được rất lớn chi phí xây hồ”.
Ở đây, không
thể nói vỡ đập là không thể vì không có công trình nào là tuyệt đối an
toàn, nhất là trong điều kiện thiết kế và thi công ở Việt Nam. Đừng nhầm
lẫn giữa việc chọn hệ số an toàn trong thiết kế và đánh giá về quản lý
rủi ro là hai khái niệm về khoa học hoàn toàn khác nhau.
GS-TS
Nguyễn Tử Siêm chuyên gia hàng đầu về nông nghiệp đặt vấn đề về giải
pháp “tràn bùn thì xả” xem ra đơn giản đến khó tin. Dựa vào dự báo thời
tiết mà mở van thì xưa nay vẫn làm thế mà bao nhiêu hồ đập đã bị tràn,
bao nhiêu lần đã vỡ, dân ở vùng hạ lưu chạy không kịp. Mà hồ chứa bùn
độc đã tràn thì khác gì bom bẩn, xử lý sao đây khi nó đã thấm sâu vào
lòng đất bazan vốn là loại đất sâu và xốp nhất trên thế giới.
Nếu
bùn đỏ thứ nhất còn có kiểm soát, thì bùn đỏ thứ hai lại không có bất
cứ biện pháp xử lý gì, làm sao mà yên tâm? Tỷ lệ sesquioxyt (hydroxyt
sắt + hydroxyt nhôm) trong đất bazan trung bình khoảng 20%. Lấy sắt nhôm
đi thì còn 80% là đất thải, chính là bùn đỏ thứ hai. Cứ cho là nó không
độc hại hóa học, thì khối lượng khổng lồ này được hòa vào nước rửa
quặng nằm trên thế dốc sao lại không thể trở thành lũ bùn.
Cách
đây 4 năm, tôi đã viết bài góp ý về “Lỗ hổng trong thiết kế hồ bùn đỏ”
càng ngày thực tế càng chứng minh là rất chính xác. Mục đích của hồ chứa
thủy lợi giống như hồ chứa bùn đỏ, có nghĩa là người ta xây đập bằng bê
tông hoặc đất đá, có dung tích để chứa nước hoặc bùn đỏ. Khác nhau ở
chỗ áp lực, hồ thủy lợi chứa nước, dung trọng của nước 1 tấn/m3, còn hồ bùn đỏ dung trọng bùn khoảng 1,4-1,5 tấn/m3,
có chất độc hại, ăn mòn nguy hiểm đến môi trường nên phải thiết kế độ
an toàn cao hơn hồ thủy lợi. Hồ thủy lợi thường có xả tràn, nước mặt hồ
bốc hơi nhanh hơn. Nước chứa trong hồ bùn đỏ chủ yếu gồm dung dịch kèm
theo bùn đỏ và nước mưa mang tính kiềm cao. Điều đáng quan tâm là phải
xem xét hàm-lượng các chất độc trong chất thải là bao nhiêu so với
tiêu-chuẩn cho phép.
Nguy cơ thấy rõ là hồ chứa
bùn đỏ về lâu dài, do tác dụng của các vi lượng độc tố sẽ ăn mòn lớp vải
địa kỹ thuật, dòng chảy thấm sẽ đi xuống lòng đất ảnh hưởng đến nguồn
nước ngầm. Khi thiết kế hồ thủy lợi hay hồ bùn đỏ đều phải tính ổn định
kết cấu như trượt, lật, lún trong điều kiện bình thuờng cũng như có động
đất. Tính ổn định thấm qua thân đập, thấm nền, riêng đối với hồ bùn đỏ
còn phải tính thêm ổn định do ăn mòn.
Tuy hồ
chứa bùn đỏ ở đây không phải là đập cao, nhưng lại chứa dung dịch độc
hại nên phải được thiết kế theo tiêu chuẩn đặc biệt. Bùn đỏ là chất lỏng
có dung trọng lớn hơn nước nên áp lực lên đập lớn hơn áp lực nước, gần
bằng áp lực đất, cho nên không thể tính ổn định như đập chứa nước. Ngày
ấy, tôi đã góp ý hồ sơ thiết kế hồ bùn đỏ quá sơ sài vì không có tính
toán ổn định, hình vẽ chỉ là sơ đồ chứ không phải là bản vẽ kỹ thuật,
ngay vẽ mái đập cũng sai, ghi mái đập là 1:3 mà hình vẽ lại thể hiện mái
1:1. Trong báo cáo thiết kế đập cho biết đây là loại đập đất đá hỗn hợp
nhưng không trình bày tính lún, tính trượt và cũng không cho biết hệ số
an toàn là bao nhiêu nên không có cơ sở khoa học để khẳng định hồ bùn
đỏ an toàn.
Về thủy văn, xin lưu ý năm 1999 đã
có trận mưa lớn nhất 325 mm/ngày. So sánh với cách tính trong hồ sơ
thiết kế hồ bùn đỏ cho tần xuất 2%, trong khi chúng ta lại chưa có quy
phạm thiết kế hồ bùn đỏ. Cần phải tính toán xem xét lại cẩn thận tần
xuất thiết kế mưa vì điều kiện khí hậu ngày càng bất lợi, nạn phá rừng,
lượng mưa sẽ biến đổi mạnh về cường độ theo cả không gian và thời gian.
Hồ sơ thiết kế thi công về phần địa chất càng sơ sài, thiếu rất nhiều so
với quy phạm thiết kế của Việt Nam. Ngay việc chọn màng địa kỹ thuật
(geomembrane) dày 1,5 mm, tính ra lượng thấm lớn nhất ở trạng thái bình
thường là 7.04x10-6 m3/s tức là 0,61 m3/ngày
đêm là không thể chấp nhận đối với an toàn của hồ bùn đỏ. Với lượng
thấm lớn như thế này chỉ sau một thời gian, chất kiềm trong bùn đỏ sẽ
xúc tác thúc đẩy nhanh hơn quá trình phân hủy của lớp màng địa kỹ thuật
ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn nước ngầm xung quanh khu vực. Đấy là chưa
kể các nguy cơ chảy tràn do lượng mưa lớn vì khả năng hồ chứa có hạn.
Các
hồ chứa ở Việt Nam bị vỡ xảy ra ở rất nhiều nơi trong các mùa bão lũ do
nhiều nguyên nhân như thiết kế, thi công, vận hành bảo dưỡng vv… mặc dù
khi thiết kế bao giờ chủ đầu tư cũng khẳng định là an toàn. Ngay hồ
chứa nước Nam Du ở Kiên Giang để cung cấp nước sinh hoạt sử dụng vải địa
kỹ thuật chống thấm ở đáy hồ, thiết kế an toàn theo lý thuyết nhưng khi
vận hành không giữ được nước, phải thiết kế, thi công lại. Đêm
5/11/2010 bùn thải có mầu đỏ tấn công hàng trăm hộ dân xã Duyệt Trung,
thị xã Cao Bằng vùi lấp hàng chục ha ruộng lúa, hoa màu, tràn vào làm
ngập số nhà dân do sự cố vỡ đập chắn nước thải tuyển quặng của Xí nghiệp
khai thác quặng sắt Nà Lũng, thị xã Cao Bằng. Ở nước ta, từ thập niên
80 đã tuyển luyện pyrite (FeS2) ở Phú Thọ, Hà Sơn Bình để lấy lưu huỳnh
làm superphotphat Lâm Thao. Đến năm 1992 thấy ô nhiễm môi trường và quá
tốn kém, sản phẩm làm ra còn đắt hơn rất nhiều so với nhập khẩu nên nhà
nước đã đình chỉ khai thác pyrite. Đó là những bài học kinh nghiệm qúy
báu đối với những người có trách nhiệm về dự án bô xit Tây Nguyên.
Một
số ý kiến cho rằng sự cố vỡ đê hồ thải quặng của bô xit Tân Rai vừa qua
không độc hại. Lập luận như thế là ngụy biện vì bùn thải quặng đuôi
không độc hại so với bùn đỏ thải từ quá trình sản xuất alumina nhưng đã
là chất thải thì ít nhiều đều có hại. Theo tôi biết, ở nhà máy Tân Rai
có sử dụng chất trợ lắng khi tuyển quặng, hóa chất trợ lắng chính là 1
loại hóa chất hoạt động bề mặt. Điều đó, có nghĩa là bùn thải quặng đuôi
sẽ không đơn thuần gây ô nhiễm (làm đục) nguồn nước mà do sự có mặt của
chất trợ lắng còn có thể ngăn cản trao đổi ô xy giữa mặt nước và không
khí, giảm hấp thụ ánh sáng dẫn tới giảm khả năng quang hợp của thực vật,
thủy sinh vv...
Tiến sĩ Nguyễn Văn Lạng cho rằng: ”Vừa
qua chúng ta đã chế tạo thành công công nghệ luyện từ bùn đỏ thành sắt,
thép. Có nghĩa là từ bùn đỏ luyện alumin, chúng ta đã lấy ra được lượng
xút trong đó và làm cho bùn không còn lượng xút, hoặc lượng xút rất
thấp, giảm độ pH xuống còn 6-7, khiến cho bùn đỏ luyện alumin không còn
độc hại.
Loại bùn đỏ độc hại này sẽ được
đưa vào trong lò cao, dùng hơi của lò cao bằng công nghệ mới tạo ra
được gang hoặc sắt, với tỷ lệ lên đến 40-41%. Tức là bùn đỏ của Việt Nam
qua quá trình laterit hóa có tỷ lệ oxit sắt 3 (Fe2O3) rất cao, từ
46-53% nên bùn đỏ Việt Nam là một mỏ sắt có trữ lượng trung bình. Với
công nghệ chúng ta vừa mới làm và được Thủ tướng Chính phủ đồng ý thì
bùn đỏ của Tân Rai và Nhân Cơ, sau khi luyện xong và thải ra mỗi năm
khoảng 1 triệu tấn lại trở thành mỏ có 400-500.000 tấn quặng sắt và
luyện ra được sắt, gang.
Không phải là
mới thử nghiệm quy mô nhỏ mà đã được thử nghiệm lên đến 1.000 tấn. Đây
là một phương pháp hoàn toàn mới, không hề được làm trong phòng thí
nghiệm. Do nhiều người không biết, không hiểu nên mới có suy nghĩ sai
lệch như thế. Hiện nay quá trình sản xuất sắt từ bùn đỏ đã được lập
thành dự án và chuẩn bị đầu tư. Tháng 10 tới đây sẽ báo cáo trước Chính
phủ để thông qua dự án đầu tư luyện sắt từ bùn đỏ. Tôi cho là hoàn toàn
khả thi.”
Nghe những lời “cứu cánh” nói
trên, không chỉ Thủ tướng, mà còn đến cả Bộ chính trị hay nhiều người
không có chuyên môn sâu cũng dễ bị ngộ nhận.
Ở
đây, cần phân biệt giữa hàm lượng oxit sắt và hàm lượng sắt trong quặng
bauxite ở Tây Nguyên. Tiến sĩ Lạng có sự nhầm lẫn latérite là quặng. ACE
ở ngành địa chất, thổ nhưỡng ai cũng biết nó là đá ong, sản phẩm của
quá trình tích lũy tuyệt đối sắt và nhôm. Ngoài 2 nguyên tố này, còn
đáng kể là mang gan và cả các keo hữu cơ, khoáng bị kết tủa cố kết lại
với nhau. Vì thế, hàm lượng sắt không cao như vậy. Ở đây quyết định là
hàm lượng sắt trong bùn đỏ của Tân Rai (và sau này là Nhân Cơ) là bao
nhiêu một cách cụ thể, chứ không phải là bùn đỏ nói chung.
Cái
quan trọng là hàm lượng sắt trong bùn đỏ sao lại gọi là latérite? Nếu
đi đôi với bauxite mà bauxite lại là từ đá basalte, một loại đá phún
xuất bị phong hóa mà thành, chứ không phải latérite hình thành tự nhiên.
Nếu bùn đỏ là latérite thì khi latérite còn là quặng, thì hàm lượng sắt
trong đó rất thấp, cũng như sidérite, chưa nghe ai nói luyện thép từ 2
loại quặng này, mà chỉ thấy nhắc đến hématite và magnétite thôi. Nguồn
gốc latérite tự nhiên là do nước ngầm có chứa dung dịch sắt chlorure
dưới các đồi trọc, do "nắng" hút lên những tầng đất trên mặt bị oxy hóa
mà thành. Đá ong cũng chính là một loại laterite.
Từ
thập niên 70, các nước như Mỹ, Nhật Bản, Nga vv…đã phát minh quy trình
luyện bùn đỏ thành sắt thép, bằng cách sử dụng than gày, và khí để hoàn
nguyên.
Quy trình luyện bùn đỏ thành sắt thép
cũng là quy trình thông dụng trong ngành luyện kim (công nghệ phi coke)
nhưng phải dùng nhiều than. Sắt xốp đã từng được làm ở Thạch Khê, và
Trại Cau (Thái Nguyên). Ở Thái Nguyên dùng than cốc luyện qua gang thành
thép (nói chính xác cốc cũng là dạng than). Ở đây hàm lượng quặng
sắt khoảng 55%, mà hiệu quả còn thấp, trong khi bùn đỏ ở nhà máy
bauxite Tây Nguyên hàm lượng quặng sắt khoảng 30%, đấy là chưa kể chi
phí phải vận chuyển hàng triệu tấn than từ nơi xa Quảng Ninh lên Tây
Nguyên hoặc phải chở toàn bộ bùn đỏ từ Tây Nguyên xuống Bình Thuận để
phát triển các dự án sắt xốp, đúng là chuyện hão huyền, ấu trĩ về kinh
tế.
Có nhà khoa học ví cái gọi là dự án sắt xốp
từ bùn đỏ của Viện Hàn lâm khoa học Việt Nam cũng giống như dự án chế
tạo xe đạp, thế giới đã làm từ lâu, chẳng có gì mới, chẳng việc gì phải
nghiên cứu, chỉ lãng phí tiền thuế của dân.
Về
sắt xốp và vật liệu xây dựng về khoa học và công nghệ ngày nay không
thành vấn đề (người ta còn chế được kim cương nhân tạo cơ mà). Luyện bùn
đỏ thành sắt thép ở Tây Nguyên hoàn toàn không khả thi về kinh tế trên
các lĩnh vực: giá thành, năng lượng và vận tải phải có, thị trường 2 thứ
nguyên liệu này hoàn toàn bão hoà, thậm chí cung đang vượt cầu.
Dự
án bô xít Tây Nguyên đúng là “bỏ thì thương mà vương thì tội” vì Nhà
nước đã đầu tư vào Tân Rai và Nhân Cơ khoảng 1,5 tỷ đô la. Thiết nghĩ
nhiệm vụ của các nhà khoa học, trước hết phải biết thượng tôn sự thật và
kiến thức khoa học trong sách vở cũng như từ thực tế. Sứ mạng của người
làm khoa học là sử dụng các kiến thức khoa học giúp những người lãnh
đạo và cộng đồng hiểu được một cách đúng đắn và chính xác những lợi ích
cũng như nguy cơ và ảnh hưởng của các công trình dân dụng và các đầu tư
khác của xã hội. Sẽ vô cùng nguy hiểm khi người làm khoa học do vô tình
hay hữu ý sử dụng những bằng chứng sai lệch hoặc không đầy đủ thông tin,
kiến thức để ngụy biện nói lấy được hay nói để mà nói cho những mục
đích hoặc nhóm lợi ích riêng.
T.V.T
*Trên đây là bản gốc của bài đã đăng trên Một thế Giới.
Luyện được sắt thép từ bùn đỏ? Tôi nghi ngờ điều này vì : về mặt lý thuyết là có thể , TG còn từng tuyên bố luyện được thép từ không khí! Nhưng nếu có làm ra được thì 1kg thép này đắt gấp trăm lần thép công nghệ thông thường . Vậy đến bao giờ mới thương mại hóa được SP thép này? Nếu không, chỉ là "tính cua trong lỗ "thôi!
Trả lờiXóaLuyện được sắt thép từ bùn đỏ? Có sức người (kiểu đảng viên Superman) có thể luyện được cơm từ bùn đỏ (sỏi đá)...
Trả lờiXóaĐây gọi là nói để lấy được lòng và tiền từ ai đó
Trả lờiXóa