Chủ Nhật, 26 tháng 10, 2014

TỪ VỤ TƯỚC BẰNG CỦA THẠC SĨ ĐỖ THỊ THOAN (2)

Lê Tuấn Huy

pro&contra 
Ngày 28/04/2014, các văn bản của giới học thuật trong và ngoài nước, phản đối việc thẩm định luận văn và thu hồi bằng Thạc sỹ Khoa học Ngữ văn của Đỗ Thị Thoan, được chính thức trao cho người đại diện của Hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Đến nay, không có phản hồi.


Ngày 15/05/2014, Bộ Giáo dục và Đào tạo phát hành Thông tư số 15/2014/TT-BGDĐT (Thông tư 15) để ban hành Quy chế đào tạo trình độ thạc sĩ (mới), có hiệu lực từ ngày 01/07/2014. Đến nay, có một phản ứng.


Với những gì tôi đề cập ở hai bài trước, thiển nghĩ, khía cạnh pháp lý, khoa học và chính trị của vụ việc, kể cả đối với thông tư mới, ít nhiều đã được cơ bản vạch ra. Nhưng với hai diễn biến vừa nhắc, có lẽ cần nói thêm vài điều.

Thông tư 15 có thể hợp pháp hóa cho các quyết định bị phản đối của Đại học Sư phạm Hà Nội không? Đương nhiên là không, bởi nguyên tắc bất hồi tố không cho phép. Thêm vào đó, ở quy chế mới, Điều 41, với hai khoản cụ thể, đã giới hạn hết sức rõ ràng phạm vi của nó, là chỉ áp dụng đối với các khóa tuyển sinh từ ngày 01/07/2014 trở đi.

Thông tư 15 có thể hợp lý hóa cho hành động phi pháp và phi lý của Đại học Sư phạm Hà Nội không? Cũng không. Bởi, cho dù ở quy chế mới, với Điều 30 về thẩm định luận văn, có đem lại sự biện minh “hậu kiểm” về động cơ hay nội dung (phần nhiều, tùy thuộc thái độ chủ quan), thì những người soạn thảo nó cũng chưa dám phá vỡ giới hạn cuối cùng của sự liêm sỉ về mặt thể thức (phải tuân thủ, bất kể thái độ chủ quan).

Tại điểm c, khoản 2, Điều 30, dù gạt học viên, người hướng dẫn và hội đồng chấm luận văn khỏi phiên họp thẩm định, quy chế mới vẫn giữ cho họ quyền được thông báo và có thể gửi ý kiến, cung cấp tài liệu tới hội đồng thẩm định. Như vậy, họ không phải hoàn toàn bị trói tay, bịt mắt, khóa miệng; mà hội đồng thẩm định cũng không phải là “thực thể” tuyệt đối bí mật, cả về con người lẫn thời gian, địa đểm.

Bên cạnh đó, tại khoản 2 của điều này, các giải pháp nhằm bảo đảm quyền lợi cho học viên sau khi luận văn bị thẩm định không đạt không vì lý do sao chép bất hợp pháp, cũng được đưa ra.

Vậy mà, bỏ xa cả Thông tư mới, vượt hẳn lên chuẩn mực hành xử văn minh, Đại học Sư phạm Hà Nội và Hội đồng Thẩm định Luận văn Đỗ Thị Thoan đã phá vỡ mọi chuẩn thức. Họ xử trí vấn đề không trên tinh thần duy lý và đối thoại của nhà khoa học, không trên tinh thần khoan dung và thiện ý của nhà giáo dục, mà bằng sự cáo buộc và phán xử của quan tòa, bằng việc xuống tay vô tình và dứt điểm của đao phủ.

Song, nói như thế không có nghĩa Thông tư 15 là hợp lý. Bản thân việc biến cái gọi là thẩm định luận văn thành một “định chế” chính thức đã là sự chà đạp thô bạo lên khoa học và tự do học thuật. Những điều phi lý của việc làm này – mà tôi đã cảnh báo – nay biểu hiện cụ thể ra ở quy chế mới:

1. Căn cứ để ra quyết định thẩm định đạt đến độ tùy tiện cao nhất: Ngoài việc có đơn tố cáo, quy chế mới cho phép thủ trưởng cơ sở đào tạo lập hội đồng thẩm định “khi thấy cần thiết”, mà tuyệt nhiên không xác định như thế nào là “thấy cần thiết”.

2. Thay cho việc minh định, sự mơ hồ được lấy làm tiêu chuẩn khoa học: Tại điểm c, khoản 2, Điều 26, luận văn được yêu cầu phải “phù hợp với thuần phong mỹ tục của người Việt Nam”, trong khi khái niệm “thuần phong mỹ tục” vốn không được định tính và định lượng một cách khoa học, mà chỉ dựa trên cách hiểu dân gian, võ đoán và mang tính bảo thủ cố hữu của ý thức xã hội. Rồi đây, học viên các ngành văn học, triết học, tâm lý học, xã hội học… hẳn sẽ không dám đi vào các đề tài như thơ Hồ Xuân Hương, libido, cách mạng tính dục, mãi dâm, v.v.. Mà cũng chưa cần đụng đến các đề tài ấy, bất kỳ nội dung nào, câu chữ nào bị gán cho là trái thuần phong mỹ tục cũng đều có thể bị truy xét.

3. Thay cho bình đẳng và đối thoại khoa học, áp chế hành chính trở thành cơ sở để xử lý học thuật:

- Biến “thẩm quyền” hành chính thành “quyền lực” khoa học: Hội đồng thẩm định có quyền định đoạt cuối cùng nhưng lại không có bất kỳ tiêu chí gì cho thấy họ có năng lực chuyên môn – đúng với đề tài liên quan – cao hơn hội đồng ban đầu.

Nên nhớ, trình độ thạc sỹ có quy trình đào tạo chỉ qua một cấp bảo vệ luận văn chứ không phải hai cấp như trình độ tiến sỹ (hội đồng cấp cơ sở và hội đồng cấp nhà nước), nên không thể lấy thẩm quyền hành chính cao hơn ra mà áp đặt và gán ghép một quyền lực khoa học mặc nhiên cho hội đồng thẩm định.

- Áp đặt “khoa học”: việc cách ly cả học viên, người hướng dẫn, lẫn hội đồng đánh giá khỏi phiên họp thẩm định áp dụng cho mọi lý do chứ không phải chỉ với những trường hợp gian lận (đạo văn, viết hộ…).

- Biến người hướng dẫn từ người gợi mở và trao đổi khoa học thành người kiểm duyệt và đồng trách nhiệm với học viên: Điều 27, khoản 2, điểm c quy định người hướng dẫn có ý kiến xác nhận luận văn đạt các yêu cầu quy định tại khoản 2 Điều 26 (có đóng góp lý luận hoặc thực tế, có giá trị, phù hợp thuần phong mỹ tục…), trong khi đó là việc mà hội đồng xét đề tài luận văn đã làm một cách sơ khởi, và sẽ được từng thành viên hội đồng chấm luận văn làm rõ.

Đồng thời, người hướng dẫn và hội đồng đánh giá – xét ở chính vai trò này – chỉ làm công việc thuần khoa học với luận văn, nhưng cũng bị đưa vào diện có thể “bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự” (Điều 40, khoản 2, điểm c). Hội đồng thẩm định, cũng làm việc với luận văn, lại không bị đặt vấn đề như thế.

4. Không những lẫn lộn tầng cấp đào tạo, còn nhầm lẫn cả lĩnh vực hoạt động, giữa đánh giá khoa học với phán xử tư pháp; mà lại là loại tư pháp nguyên sơ nhất: (không có đối thoại mở và bình đẳng khoa học) chỉ có thẩm quyền tuyệt đối, kín và chung quyết của hội đồng thẩm định, mà không có cơ chế để kháng nghị từ phía đối tượng bị tái thẩm hay công luận.

5. Trao thẩm quyền “tự trị” độc đoán và vô hạn cho thủ trưởng cơ sở đào tạo.

Những điểm cơ bản trên không hẳn đã báo hiệu cái chết của đào tạo và khoa học, bởi nó đã chết từ lâu trước khi có Thông tư 15, đặc biệt là các ngành khoa học xã hội. Thông tư này chỉ góp thêm vào “tính rừng” của hệ thống văn bản pháp lý, nhằm “cung ứng” thêm một công cụ tự kiểm duyệt cho học viên và người tham gia đào tạo sau đại học.

Có thể, để đồng bộ, Thông tư 15 sẽ là hình mẫu cho một “định chế” tương tự trong đào tạo tiến sỹ, sẽ ra đời ở một thông tư khác. Hậu quả của chúng như thế nào, xin không bàn đến nữa.

Liên quan đến thông tư đang đề cập, Luận văn của Đỗ Thị Thoan cũng chỉ như một việc đã rồi. Tuy nhiên, với sự cụ thể đến mức hơi bất thường ở Điều 41 (để ngăn làn sóng tố ngược các luận văn giai đoạn hóa rồng học vị vừa qua chăng?), đã chứng minh thêm nữa sự bất hợp pháp trong việc thẩm định Luận văn Đỗ Thị Thoan và củng cố cơ hội sử dụng các biện pháp pháp lý đối với việc làm đó.

Đối với Đỗ Thị Thoan và Hội đồng Đánh giá Luận văn, con đường công luận rõ ràng đã thành công. Nay, con đường pháp lý – nếu muốn – là công việc liên hệ trước tiên với những người liên can trực tiếp. Công luận chỉ có thể hỗ trợ.

Đối với Hiệu trưởng Đại học Sư phạm Hà Nội, các quy định mặc nhiên miễn cho ông trách nhiệm pháp lý trong việc trả lời các văn bản của giới học thuật trong và ngoài nước. Nhưng với tư cách một cá thể trong cộng đồng khoa học và giáo dục, ông vẫn mang trách nhiệm đạo lý và trách nhiệm khoa học. Tất nhiên, ông hoàn toàn có thể xem đó chẳng có gì là trách nhiệm, nhưng trở thành một vết nhơ dưới con mắt của cộng đồng này, trong lịch sử học thuật nước nhà, là cái giá không nhỏ, cho dù ông có được sự hậu thuẫn của những quyền lực ngoài khoa học.

Dù sao, đến lúc này, trên bình diện chung, câu chuyện Đỗ Thị Thoan xem ra đã nhẹ hơn việc ra đời của Thông tư 15.

Có lẽ, rồi sẽ có thêm tiếng nói về nó, nhưng một khi phần đông giới đại học vẫn xem việc lên tiếng là công việc của người khác, còn mình thì sẵn sàng chấp nhận một tầng mới được gia cố vào cái “vòng kim cô” vốn có, thì đừng mong có được hiệu quả như việc Bộ Công an đã “đính chính” Thông tư 28/2014/TT-BCA ngày 07/07/2014 của bộ này.

Và, bất cứ sự đấu tranh nào với Thông tư 15 mà không tính đến đến hiệu quả, không tính đến những hình thức khả dĩ để gia tăng trọng lượng (vận động không hợp tác quốc tế, không tham gia đào tạo, v.v…), thì tốt nhất, đừng làm gì.

01-05/10/2014

 

1 nhận xét :

  1. Ông Minh,hiệu trưởng,có thể chỉ là nạn nhân của chế độ độc tài.Ông thừa biết những bậc tiền bối bị đảng ta đày đoạ như thế nào nếu không nghe lời trong Nhân Văn Giai Phẩm.Củng có thể bản chất ông ta là vậy.Tóm lại,tính ưu việt của chế độ ta là buộc những người như ông Minh đều phải hành xử như vậy cho dù bản chất của ông ta xấu hay tốt và ông ta muốn hay không

    Trả lờiXóa