Một thất bại hoàn toàn và trái khuấy của Trung Quốc
tại Biển Đông
Bill Hayton, National Interest, ngày 5/8/2014
Trần Ngọc Cư dịch
“Bất cứ điều gì mà Bắc Kinh hi vọng đạt được trong việc triển khai giàn khoan Hải Dương 981 đều không thành công – dù đó là dầu lửa, lợi thế lãnh thổ, hay thắng lợi chiến lược dài hạn.”
“Bất cứ điều gì mà Bắc Kinh hi vọng đạt được trong việc triển khai giàn khoan Hải Dương 981 đều không thành công – dù đó là dầu lửa, lợi thế lãnh thổ, hay thắng lợi chiến lược dài hạn.”
Dù
bằng bất cứ thước đo nào mà ta lựa chọn, cuộc phiêu lưu giàn khoan gần
đây của Trung Quốc là một thất bại thê thảm. Bắc Kinh đã không đem về
thêm một giọt dầu nào cho giới tiêu thụ Trung Quốc, không lấy thêm được
một tấc lãnh hải nào, mà chỉ dâng hiến cho Mỹ một lợi thế chiến lược
trong khu vực. Sự đoàn kết của khối ASEAN vẫn được duy trì vững vàng và
địa vị của các thế lực “thân Bắc Kinh” tại các nước có tranh chấp tại
Biển Đông, đặc biệt tại Việt Nam, đã bị suy yếu nghiêm trọng. Trung Quốc
đã phơi bày sự kém cỏi của mình trong việc thực hiện chính sách đối
ngoại. Vì sao mọi việc đã diễn ra trái khuấy như vậy?
Chúng
ta không biết được giới lãnh đạo Trung Quốc hi vọng sẽ đạt được điều gì
khi họ phê chuẩn việc hạ đặt giàn khoan lớn nhất của Trung Quốc và
triển khai một đội hạm thuyền hộ vệ vào vùng nước cũng được Việt Nam
tuyên bố chủ quyền. Không có dấu hiệu gì cho thấy chiến dịch này chỉ là
một nỗ lực tìm kiếm dầu khí. Có nhiều địa điểm thuận lợi hơn để Trung
quốc đầu tư thăm dò. Ngày 19 tháng Ba, Tổng công ty Dầu khí Hải dương
Trung Quốc (CNOOC) công bố đã phát hiện một khu vực dầu khí có kích cỡ
trung bình tại một vùng nước không tranh chấp gần Đảo Hải Nam. Việc khai
thác khu vực này đã bị đình hoãn trong trong thời gian cuộc phiêu lưu
Hoàng Sa đang diễn ra ở một vùng nước xa xôi về phía nam.
Hai
vùng đáy biển được giàn khoan khủng Hải Dương 981 thăm dò không có viễn
ảnh tốt về trữ lượng dầu khí. Một báo cáo năm 2013 do Cơ quan Quản lý
Thông tin Năng lượng Hoa Kỳ đưa ra cho thấy rằng tiềm năng dầu khí của
khu vực Hoàng Sa được coi là thấp. Một dấu hiệu có ý nghĩa là Tổng công
ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc [CNOOC], một công ty có kinh nghiệm nhất
của Trung Quốc về khai thác dầu khí ngoài khơi, đã không tham dự vào
cuộc viễn chinh này. Mặc dù một chi nhánh của Tổng công ty Dầu khí Hải
dương Trung Quốc là Công ty Hữu hạn Cung cấp Dịch vụ Khai thác Dầu khí
Trung Quốc (COSL) điều hành giàn khoan Hải Dương 981, nhưng toàn bộ hoạt
động tìm kiếm này lại do Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Trung Quốc (CNPC)
điều khiển – đây là một công ty rất thiếu kinh nghiệm thăm dò tại Biển
Đông.
Giàn khoan Hải Dương 981 đã chấm dứt nhiệm
vụ một tháng trước hạn kỳ, khi đối diện với trận siêu bão Rammasun đang
lù lù ập đến. Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Trung Quốc tuyên bố rằng giàn
khoan này đã tìm thấy dầu khí tại Hoàng Sa, nhưng lại rất mập mờ về chi
tiết và số lượng. Gần như chắc chắn rằng các trữ lượng dầu ở đây sẽ
không bao giờ được khai thác để bán ra, vì lý do kỹ thuật lẫn lý do
chính trị. Hoạt động tìm kiếm này không thực sự liên quan đến dầu khí.
Ta
có thể an tâm loại bỏ một động cơ chính ở đây. Mọi người đều biết rằng
sứ mệnh của giàn khoan không phải là một âm mưu sách động tình tự yêu
nước của người dân Trung Quốc vì, như nhà nghiên cứu Úc Andrew Chubb cho
thấy, tin tức liên quan đến các đụng độ giữa hạm đội bảo vệ giàn khoan
Trung Quốc và Cảnh sát biển Việt Nam được bưng bít trên truyền thông
Trung Quốc cả một tuần sau đó.
Tuy nhiên, rất có
thể Trung Quốc đã theo đuổi một mục đích chính trị khác. Một chiến dịch
với tầm cỡ này chắc hẳn phải được lên kế hoạch trước và được thông qua ở
cấp cao nhất của giới lãnh đạo. Nhà cầm quyền Trung Quốc thông báo rằng
giàn khoan đã đến vị trí thăm dò vào ngày 3 tháng Năm, đúng một tuần
trước khi hội nghị thượng đỉnh của Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN) diễn ra tại Myanmar. Có lẽ Bắc Kinh đã nuôi hi vọng lặp lại
thắng lợi mà họ đã gặt hái tại cuộc họp Bộ trưởng Ngoại giao của các
nước ASEAN tại Phnom Penh tháng Bảy 2012. Vào dịp đó, khối ASEAN đã chia
rẽ: Campuchia phủ quyết bản tuyên bố chung, đẩy Philippines và Việt Nam
vào thế cô lập trong cuộc tranh chấp biển đảo với Trung Quốc.
Nếu
Trung Quốc nuôi hi vọng đạt được một điều tương tự liên quan đến cuộc
tranh chấp Hoàng Sa, thì kết quả đã hoàn toàn ngược lại. Các nước ASEAN
đã xích lại gần nhau trong việc bày tỏ tình đoàn kết rất rõ nét và đã ra
một tuyên bố chung, mà trên thực tế là yêu cầu Bắc Kinh rút lui. Đây là
lần đầu tiên tổ chức này đã bày tỏ lập trường về quần đảo Hoàng Sa –
vốn nằm trong một tranh chấp song phương thuần túy giữa Trung Quốc và
Việt Nam (khác hẳn với các tranh chấp tại quần đảo Trường Sa liên quan
tới năm nước thành viên ASEAN kể cả Indonesia). Andrew Chubb lý luận
rằng sự bày tỏ tình đoàn kết thầm lặng này có tác động mạnh mẽ tại Bắc
Kinh hơn hơn cả các tuyên bố ồn ào từ Washington.
Một
số nhà bình luận cho rằng màn kịch giàn khoan là một ví dụ điển hình về
thủ thuật “thái mỏng đòn chả (salami slicing)” – một tiến trình liên
tục chiếm cứ Biển Đông bằng từng bước nhỏ, không thu hút quá nhiều chú ý
của thế giới. Nhưng nếu đó là mục tiêu, thì kịch bản này đã thất bại
vì, với việc rút lui giàn khoan, vùng lãnh hải này lại trở về tình trạng
không có ai chiếm đóng. “Lát chả” đã tái hợp với đòn chả. Bộ Chính trị
ĐCSTQ có thể đã cho rằng chỉ cần một tuyên bố quả quyết về quyền kiểm
soát lãnh hải [maritime control] là có thể củng cố tuyên bố chủ quyền
lãnh thổ đối với các hòn đảo, nhưng phản ứng cứng rắn của Việt Nam cũng
là một bằng chứng hùng hồn không kém nhằm bác bỏ yêu sách chủ quyền này
của Trung Quốc.
Hugh White, một nhà nghiên cứu
Úc, đã tranh luận rằng mục đích của Trung Quốc trong việc gây ra các
cuộc đối đầu như thế là cố tình phân tán mỏng và làm suy yếu các khâu
nối kết an ninh ràng buộc Hoa Kỳ với Đông Nam Á. “Bằng cách đối đầu với
các nước bạn của Mỹ bằng vũ lực”, ông nói, “Trung Quốc đặt Mỹ trước lựa
chọn hoặc là phải bỏ rơi bạn bè của mình hoặc là đánh nhau với Trung
Quốc. Bắc Kinh đang đánh cược rằng, đứng trước lựa chọn này, Mỹ sẽ xuống
nước và bỏ mặc đồng minh và bạn bè của mình không có chỗ nương tựa.
Việc này sẽ làm suy yếu các liên minh quân sự và đối tác của Mỹ, xói mòn
quyền lực của Mỹ tại châu Á, và tăng cường quyền lực của Trung Quốc.”
Nhưng
Việt Nam không phải là một đồng minh của Hoa Kỳ, vì thế màn kịch giàn
khoan cho thấy rõ ràng hơn các vấn đề của việc một mình đơn độc đương
đầu Trung Quốc. Tuy nhiên, khi gây ra cuộc đối đầu này, Bắc Kinh đã gặt
hái một hậu quả ngược với dự kiến của White: đẩy Hà Nội tới gần
Washington hơn. Như cuốn sách gần đây của David Elliott giải thích (mời
đọc bài điểm sách của tôi ở ĐÂY),
định hướng chính sách đối ngoại của Việt Nam nói chung là thân Trung
Quốc kể từ khi nước này chấm dứt việc thân Liên Xô. Trong hai thập kỷ
vừa qua, chỉ khi nào những tiếng nói “thân Trung Quốc” bị suy yếu do các
thất bại chính sách và do thái độ thù nghịch của Trung Quốc – thì những
thành phần muốn tự do hóa thể chế mới có thể tái định hướng chính sách
đối ngoại của Việt Nam.
Nhà nghiên cứu Zachary Abuza đã cung cấp chúng ta một bản tường trình sâu sắc cho
thấy cán cân lực lượng bên trong hàng ngũ lãnh đạo cao cấp của Đảng
Cộng sản Việt Nam đã thay đổi do hậu quả của cuộc đối đầu tại giàn
khoan. “Một hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam vào
tháng Sáu 2014 đã nhất trí lên án Trung Quốc về hành động hung hăng và
xâm phạm lãnh thổ Việt Nam,” Abuza cho biết. Cuối tháng Bảy, Ủy viên Bộ
Chính trị Phạm Quang Nghị thực hiện một chuyến công du Hoa Kỳ theo lời
mời của Bộ Ngoại giao Mỹ, gây chú ý cho nhiều người.
Nói
tóm lại, bất cứ điều gì mà Trung Quốc hi vọng đạt được bằng cách triển
khai giàn khoan Hải Dương 981 đều không thành tựu – dù đó là dầu lửa,
lợi thế lãnh thổ, hay thắng lợi chiến lược dài hạn. Liệu ta có thể giải
thích thế nào về thất bại này trong chính sách đối ngoại Trung Quốc? Tôi
nghĩ rằng màn kịch giàn khoan cho thấy chính sách biển Hoa Nam [Biển
Đông] của Trung Quốc chỉ là một phản ánh của các ưu tiên trong nước hơn
là một chính sách đối ngoại được cân nhắc cẩn thận. Nói tóm lại, Biển
Đông đã trở thành một cái máng heo khổng lồ [a giant pork barrel] cho
một số tỉnh của Trung Quốc, các cơ quan nhà nước và các công ty quốc
doanh.
Cách đây hai thập kỷ, John Garver đã
tranh luận rằng việc hải quân Trung Quốc đẩy mạnh sự hiện diện của mình
vào Biển Đông tiêu biểu cho "tác động qua lại của các lợi ích quốc gia và các lợi ích của bộ máy quan liêu".
Những lợi ích này vẫn còn đang tương tác. Hải quân Trung Quốc đang trở
nên lớn mạnh cùng với những ngân sách ngày một phình ra. Uy tín, sự
thăng quan tiến chức và các phần thưởng tiền bạc cũng do sự tương tác
này mà ra. Thực tế này cũng được áp dụng cho Lực lượng Tuần duyên Trung
Quốc mới được thành lập – một năm sau khi một số cơ quan thẩm quyền về
biển đảo được nhập chung thành một khối. Lực lượng Tuần duyên cần phải
tập trung vào một cái gì khác hơn các tranh chấp nội bộ diễn ra trong
quá trình hoàn tất sự hợp nhất nói trên. Cả Lực lượng Tuần duyên lẫn Hải
quân Trung Quốc đang theo đuổi các sứ mệnh nhằm chứng tỏ sự hữu dụng và
biện minh cho ngân sách của mình.
Và [trên Biển
Đông] những gì phù hợp với quân đội cũng phù hợp với các tỉnh phía Nam.
Hải Nam là tỉnh nhỏ nhất của Trung Quốc và tương đối nghèo, với một nền
kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Trong những năm gần đây, tỉnh này
đã đầu tư nhiều nỗ lực to lớn vào việc phát triển các công nghiệp thủy
sản và trở thành chuyên gia trong việc gặt hái các trợ cấp nhà nước để
trang bị cho các tàu đánh cá mới. Một bản tường trình xuất sắc do hãng
tin Reuters thực hiện ngay tại hiện trường vào tháng trước đã cho chúng
ta biết đến hàng trăm, có lẽ hàng ngàn tàu đánh cả, đã nhận được trợ cấp
từ 300 USD đến 500 USD mỗi ngày để đánh bắt cá trong các vùng biển có
tranh chấp. Khi một thuyền trưởng tàu cá Trung Quốc nhận xét rằng “nhà
cầm quyền hậu thuẫn việc đánh bắt cá trong biển Hoa Nam [Biển Đông] để
bảo vệ chủ quyền của Trung Quốc”, nếu ta nói rằng nhà cầm quyền đã lợi
dụng đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc để biện minh cho việc hậu thuẫn
nghề cá, thì cũng chính xác không kém. Reuters khám phá ra rằng tám tàu
kéo lưới được hạ thủy từ cảng Dongfang trên đảo Hải Nam mỗi chiếc sẽ
được hưởng 322.500 USD tiền trợ cấp “đóng mới”.
Các
công ty dầu khí cũng có thể chơi lá bài chủ quyền để hậu thuẫn cho các
dự án bán thương mại [semi-commercial ventures] của mình tại Biển Đông.
Vào tháng Năm 2012, khi Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc hạ
thủy giàn khoan nước sâu do Nhà nước tài trợ, một giàn khoan từng nằm ở
vị trí trung tâm của cuộc đối đầu tại Hoàng Sa, tức giàn khoan Hải Dương
981, vị Chủ tịch của tập đoàn này đã có lối mô tả nổi tiếng khi ông gọi
nó là “lãnh thổ quốc gia di động và là một vũ khí chiến lược.”
Do
đó, người ta lấy làm lạ là Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc
[CNOOC] đã không chỉ huy cuộc viễn chinh tại Hoàng Sa. Vì sao có sự kiện
này? Chúng tôi không trực tiếp biết được các âm mưu trong tập đoàn
nhưng một vài lý giải đã gợi ý về điều này. Có thể Tập đoàn Dầu khí Quốc
gia Trung Quốc [CNPC] đã tự nguyện chấp nhận những rủi ro mà Tổng Công
ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc không dám làm – cả rủi ro kỹ thuật lẫn
rủi ro chính trị. Đây là lần đầu tiên mà giàn khoan Hải Dương 981 được
sử dụng trong vùng nước sâu và trong lãnh hải có tranh chấp. Có thể Tập
đoàn Dầu khí Quốc gia Trung Quốc đã nhanh chân hơn Tổng công ty Dầu khí
Hải dương Trung Quốc bằng cách đi cắm dùi để giành chủ quyền tại một
vùng chưa được thăm dò. Hoặc có thể ban quản lý cao cấp của Tập đoàn Dầu
khí Quốc gia Trung Quốc đang tìm cách thoát ra khỏi những vấn đề chính
trị nghiêm trọng. Những cáo buộc tham nhũng ngày một chồng chất lên công
ty này, đang trở thành một tai tiếng chính trị quốc gia. Ban quản lý
của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia có thể đã coi cái sứ mệnh cắm lá cờ tổ
quốc lên vùng lãnh hải có tranh chấp như một cách để cầu cạnh ân huệ từ
Bộ Chính trị và mong cứu lấy sinh mạng chính trị của mình.
Nói
thế không có nghĩa là để phủ nhận sự kiện là các lực lượng Trung Quốc
tham dự vào cuộc đối đầu tại giàn khoan Hải Dương 981 đã hết lòng tin
tưởng vào chính nghĩa của đòi hỏi chủ quyền mà nước họ đã tuyên bố trên
Biển Đông. Huyền thoại về “chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc”
đã được gieo vào đầu óc của nhiều thế hệ con em Trung Quốc. Trong một
bài viết khác, tôi đã tranh luận rằng sự tin tưởng này đặt cơ sở trên
những giải thích lệch lạc về lịch sử Đông Nam Á do các học giả Trung Hoa
Dân Quốc gây ra vào đầu thế kỷ 20, nhưng tôi tin chắc rằng các lãnh đạo
hiện nay của Trung Quốc cũng thật lòng tin tưởng vào tính chính xác của
huyền thoại nói trên.
Tuy nhiên, đối với các
nhóm lợi ích đặc biệt bên trong bộ máy quan liêu của Đảng và Nhà nước
Trung Quốc, Biển Đông đã trở thành một bịch quà chính trị khổng lồ.
Thỉnh thoảng, các nhóm lợi ích chỉ việc đánh vào vấn đề Biển Đông là có
thể khởi động thêm một dòng chảy trợ cấp được ban phát từ trên. Chính
sách của Trung Quốc đối với Biển Đông hiếm khi là kết quả của các lý
luận chín chắn được cân nhắc và đúc kết thành một mối, mà thường là hậu
quả khó lường của một sự tích tụ các cuộc vận động hành lang. Khi các
nhóm lợi ích này cấu kết với nhau, họ sẽ tạo thành sức mạnh vô song: họ
có thể khuynh đảo chính sách của Đảng Cộng sản theo chiều hướng có lợi
cho minh. Dù vì tinh thần dân tộc chủ nghĩa, vì an ninh quốc gia, vì lợi
nhuận hoặc vì công ăn việc làm, có một điều mà tất cả các nhóm lợi ích
có thể đồng ý với nhau là, Trung Quốc cần phải tiếp cận các tài nguyên
của Biển Đông.
Vô số nhà bình luận đã bị các nỗ
lực tuyên truyền của Trung Quốc lừa bịp. Huyền thoại về khả năng bách
chiến bách thắng rất khó lường của Bắc Kinh có gốc rễ từ những trang xã
luận của rất nhiều tờ báo. Do đó, thậm chí cả khi Trung Quốc phạm phải
một sai lầm, nhiều người vẫn cho rằng đó chỉ là một cách ngụy trang cho
một âm mưu tinh vi và thâm độc hơn. Đã đến lúc cần phải xua tan cái
huyền thoại đó đi và nhìn tận mặt các sai lầm của Bắc Kinh. Hiện nay, từ
“bừa bãi” [cockup] giúp ta hiểu dễ dàng các động thái của Trung Quốc
trong Biển Đông hơn là hai chữ “âm mưu”.
Bill Hayton là tác giả cuốn The South China Sea: the struggle for power in Asia [Biển Đông: cuộc tranh giành quyền lực tại châu Á] sắp được Yale University Press xuất bản.
Dã tràng xe cát Biển Đông
Trả lờiXóaNhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì!