Thứ Tư, 6 tháng 8, 2014

KIỆN TRUNG QUỐC, VIỆT NAM CÓ ĐANG ĐI ĐÚNG HƯỚNG?

Liệu VN có đang đi đúng hướng chuẩn bị tài liệu và lập luận cho một vụ kiện TQ về vấn đề BĐ-HS-TS? 
03-08-2014

Mấy hôm trước nhà văn Phạm Thị Hoài đặt câu hỏi: “Bao nhiêu bản đồ thì đủ?” Câu hỏi này không chỉ liên quan đến một quyển sách về bản đồ cổ được xuất bản gần đây với đầy lỗi mà còn đụng chạm đến một vấn đề khác quan trọng hơn nhiều: liệu VN có đang đi đúng hướng chuẩn bị tài liệu và lập luận cho một vụ kiện TQ về vấn đề BĐ-HS-TS?

Nhiều người Việt (trước đây tôi cũng vậy) rất hồ hởi khi ai đó tìm ra được một bản đồ cổ thể hiện HS-TS là của VN. Tôi có cảm giác giới chuyên gia Việt hầu như chỉ tâp trung vào lĩnh vực này, sưu tầm bản đồ, tài liệu cổ để chứng minh chủ quyền của mình trên HS-TS trong giai đoạn trước thế kỷ 20. Giới luật gia quốc tế gọi cách tiếp cận này là sử dụng “historical title”.


Như tôi đã giải thích trước đây UNCLOS không chấp nhận khái niệm “historical title” (trừ một số trường hợp rất hãn hữu) bởi vậy hướng đi này chủ yếu nhắm đến việc kiện đòi lại chủ quyền HS-TS chứ không phải tranh chấp ranh giới biển với TQ. Tuy nhiên áp dụng historical title trong tranh chấp chủ quyền HS-TS cũng có những hạn chế mà bài báo dưới đây chỉ ra.

Thứ nhất, nói gì thì nói luật pháp quốc tế về cơ bản dựa trên nền tảng luật phương Tây nên những bằng chứng, lập luận về “historical title” theo truyền thống phương Đông (của cả VN lẫn TQ) đều có thể không phù hợp. Có học giả quốc tế cho rằng  thậm chí khái niệm quốc gia và chủ quyền (nhất là chủ quyền trên các hòn đảo xa bờ) ở châu Á trước khi người da trắng đến rất mơ hồ và không phù hợp với những khái niệm hiện đại. Bởi vậy những bản đồ, chiếu chỉ, gia phả cổ có thể không có nhiều giá trị như chúng ta vẫn tưởng.

Thứ hai, ngay cả nếu “historical title” của VN được chứng minh và thừa nhận, để đảm bảo chủ quyền không bị mất VN phải chứng minh được đã thực thi chủ quyền trên HS-TS một cách liên tục và hiệu quả. Việc cử hải đội ra khai thác trên các hòn đảo này không chắc đã đủ để chứng mình việc thực thi chủ quyền dưới mắt một trọng tài/quan tòa phương Tây. Trên thực tế một số học giả quốc tế cho rằng cả VN và TQ đã không thực thi chủ quyền đầy đủ cho đến đầu thế kỷ 20.

Hai tác giả của bài báo dưới đây (và không chỉ có họ) khẳng định cột mốc để đánh giá việc VN hay TQ có chủ quyền trên HS-TS là năm 1951 khi tại hội  nghị San Francisco Nhật từ bỏ quyền chiếm đóng tất cả các đảo trên Biển Đông. Nếu đây trở thành quan điểm chính thống của tòa thì như nhà văn Phạm Thị Hoài nói tất cả các bản đồ cổ chỉ còn giá trị nghiên cứu. Như vậy nỗ lực của các chuyên gia VN phải là đi thu thập các tài liệu chứng minh chủ quyền từ sau năm 1951 (hoặc cùng lắm từ đầu thế kỷ 20) chứ không phải chỉ nhăm nhăm đi tìm bản đồ, chứng chỉ trong thế kỷ 18-19.

Cuối cùng, VN phải chấp nhận một sự thật là TQ đang chiếm đóng HS và một số đảo ở TS. Việc kiện tụng đòi lại chủ quyền trên 2 quần đảo này sẽ rất khó khăn và lâu dài trong khi TQ đang càng ngày càng có các hoạt động bành trướng (eg. giàn khoan, tàu cá). Bởi vậy VN phải ưu tiên cho một vụ kiện theo UNCLOS để hạn chế các hoạt động bành trướng của TQ trên biển chứ không nên quá tốn thời gian và công sức cho vấn đề chủ quyền HS-TS. Nếu vậy những bằng chứng cho thấy đảo Triton không support được sự sống nên không có EEZ quan trọng hơn nhiều một bản đồ cổ chứng minh hòn đảo đó là của VN.


- The Roots of Historic Title: Non-Western Pre-Colonial Normative Systems and Legal Resolution of Territorial Disputes (Cambridge Journals).

4 nhận xét :

  1. Kiện TQ thì phải tập hợp tất cả những dữ liệu chính xác nhất và có lợi cho VN nhất . Bởi vậy cần huy động trí tuệ không những trong và ngoài nước nữa . Các chuyên gia quốc tế cũng cần được mời . BK cũng chẳng dại gì mà không tập trung những dữ liệu, những chứng cứ trong quá khứ để chống lại ta , để bảo vệ cho chủ quyền của họ ở BĐ . Các dữ liệu này nhiều thứ là những tuyệt mật không thể công bố ngay khi chưa tiến hành chuẩn bị cho vụ kiện . Có ai lại cho đối phương biết trước vũ khí của mình trước khi tấn công ?

    Trả lờiXóa
  2. Tôi đồng ý quan điểm của bài viết này, vì nói đến chứng cứ lịch sử thời xa xưa thì chỉ có VN ta mới có để chứng minh HS-TS là của VN, còn TQ chẳng có gì cả. Chứng cứ lịch sử có giá trị khi 2 nước cải tay đôi với nhau. Còn đem ra kiện ở tòa quốc tế thì phải chấp nhận xử theo luật quốc tế, vì thế các luật sư VN nên nghiên cứu luật quốc tế để chuẩn bị dữ liệu kiện cho chắc ăn. Tôi thấy có nhiều vị luật sư của ta nói: công hàm PVĐ không có giá trị vì quốc hội chưa thông qua và hồi đó HS-TS là do VNCH quản lý nên công hàm cũng không có giá trị, nói như thế thì "hai lúa" như tụi tui cũng thường nói với nhau như vậy và tất cả người Việt yêu nước đều nói như vậy vì tòa án nhân dân phán như vậy và nhân dân xử như vậy. Nhưng một khi đã chấp nhận ra tòa quốc tế thì ta phải chấp nhận xử theo quan điểm quốc tế, nghĩa là mọi công hàm, tuyên bố, chứng cứ mà TQ đưa ra theo quan điểm quốc tế có bất lợi cho chúng ta hay không? nếu các luật sư VN không biết thì mướn luật sư quốc tế giải thích, có như thế ta mới tìm cách phản biện được để dành thắng lợi tại tòa quốc tế. Tôi kêu gọi chúng ta đừng tốn thời gian nói về luật ta mà nên nói về luật quốc tế khi kiện, nếu luật quốc tế không xong thì mua thêm vũ khí về giải quyết để dành lại Hoàng Sa.

    Trả lờiXóa
  3. Tôi đồng ý vơi bạn Thời Danh:Các chứng cứ phải được giữ tuyệt mật,không nên công khai bàn luận trên mạng.Chỉ những thành viên Ban chuẩn bị hồ sơ và những người có trách nhiệm mới được tiếp cận và bàn thảo về các chứng cứ này.

    Trả lờiXóa
  4. Chứng cứ phải giữ "tuyệt mật" .. lại một khái niệm rất ư là Việt Nam ?
    Một phiên tòa mà trong đó luật sư của bên VN tung ra những chưởng "tuyệt mật" làm cho luật sư bên đối thủ ú ớ, ngắc ngư và thoi thóp . Ta bồi thêm 1 chưởng kỳ bí khác nữa khiến cho đối thủ .. vĩnh viễn knock out ?
    Xin thưa, luật pháp Tây phương (và quốc tế) nó không phải vậy ! Vì bất cứ yếu tố nào không nằm trong hồ sơ nộp tòa đều bị xem là không hiện hữu . Với nữa bên bị đơn có quyền xem xét toàn bộ hồ sơ của bên nguyên để họ tìm cách phản biện đấy ạ .
    Tòa án xét xử khi đã đọc, nghe đầy đủ tất cả những luận cứ mà hai bên đã có thời giờ sửa soạn, trình bày .

    Trả lờiXóa