Việt Nam cần thay đổi cách tiếp cận trong bảo vệ chủ quyền
Nguyễn Thế Phương
25-06-2014
Việc Trung Quốc quyết định di chuyển dàn
khoan Hải Nam số 9 (Hai nan jiu hao) vào biển Đông, mà cụ thể là tới
tọa độ gần cửa vịnh Bắc Bộ, cho thấy quyết tâm cao độ của Trung Quốc
nhằm hiện thực hóa tham vọng chủ quyền của mình tại biển Đông. Bất chấp
các phản ứng của Việt Nam cũng như bất chấp việc uy tín của mình đang bị
giảm xuống nhanh chóng, hành vi của Bắc Kinh đã chứng minh rằng các
cách tiếp cận “mềm dẻo” hiện tại của Việt Nam trên thực địa đã không
mang lại hiệu quả như mong muốn.
Ngoại giao nước nhỏ và phản ứng của nước lớn
Trước hết, cần phải xác định rằng việc
Việt Nam chỉ đưa lực lượng Cảnh sát biển và Kiểm ngư ra thực địa để đối
phó với hành vi hạ đặt trái phép dàn khoan Hải Dương 981 (HD-981) cho
tới thời điểm hiện tại là hoàn toàn phù hợp. Về mặt luật pháp, hành động
này chứng tỏ Việt Nam là một quốc gia tôn trọng các chuẩn tắc mà thế
giới đã quy định liên quan tới tự do hàng hải. HD-981 di chuyển trong
vùng biển quốc tế, và tiếp cận vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) 200 hải lý
của Việt Nam phù hợp với những gì mà UNCLOS đã quy định về quyền đi qua
không gây hại. Khi HD-981 “dừng lại”, Việt Nam cũng đã phản đối và thể
hiện quyền tài phán của mình bằng cách sử dụng các lực lượng bán quân sự
để tránh đẩy căng thẳng lên cao và châm ngòi cho một xung đột không cần
thiết.
Về mặt ngoại giao, Việt Nam cũng đã tận
dụng tất cả các kênh ngoại giao song phương và đa phương để tuyên
truyền, nói rõ với bạn bè thế giới về lập trường, về chủ quyền của mình
cũng như vạch trần hành vi sai trái của Trung Quốc. Các nhà lãnh đạo cấp
cao nhất đã phát đi những thông điệp đanh thép về việc bảo vệ cho bằng
được chủ quyền của quốc gia. Thậm chí, biện pháp kiện Trung Quốc ra tòa
cũng đã được Thủ tướng nêu ra. Cuộc chiến tuyên truyền bước đầu mang lại
những kết quả tích cực. Tuy nhiên, Bắc Kinh vẫn không chịu thay đổi lập
trường của mình, và dàn khoan thứ hai vẫn được kéo vào biển Đông.
Tại sao Việt Nam vẫn kiên trì theo đuổi
ngoại giao mềm dẻo và vẫn chưa đưa các tàu hải quân chính thức ra điểm
nóng? Có rất nhiều nguyên nhân. Thứ nhất, ngoại giao vẫn được Việt Nam
coi là công cụ hàng đầu chống lại chính sách bá quyền của Trung Quốc
hiện tại. Với một nước nhỏ, lập luận rằng chỉ có ngoại giao và các
phương thức tập hợp lực tiếng nói ủng hộ của quốc tế mới có thể tạo ra
ưu thế là điều tương đối dễ hiểu nếu xét tới bối cảnh chênh lệch lực
lượng quá lớn như hiện nay tại biển Đông. Thứ hai, nhiều ý kiến cho rằng
sự xuất hiện của hải quân có thể khiến cho tình hình vượt ra ngoài tầm
kiểm soát và sẽ “vướng” vào cái bẫy mà Trung Quốc sẽ giăng ra nhằm cáo
buộc Việt Nam là bên gây hấn. Một cuộc đụng độ bằng vũ khí nóng giả định
nếu xảy ra thì phần thua chắc chắn thuộc về phía Việt Nam và như vậy
Trung Quốc có thể tận dụng cơ hội đó vi phạm nghiêm trọng hơn nữa chủ
quyền của Việt Nam. Thứ ba, có khả năng các yếu tố mang tính chính trị
đã trì hoãn những hành động cứng rắn hơn từ phía Việt Nam, khi Đảng Cộng
sản của hai nước có mối quan hệ khăng khít từ lịch sử. Tâm lý cho rằng
Trung Quốc sẽ từ từ giảm căng thẳng hiện tại có thể là một tâm lý hết
sức sai lầm. Bắc Kinh thừa hiểu rằng ngoài ngoại giao, Việt Nam có rất
ít các công cụ khác để đối phó với các hành vi gây hấn của nước này tại
biển Đông.
Khoan hãy nói tới việc dàn khoan thứ 2
này có vi phạm EEZ của Việt Nam hay không, vì dù có hay không thì chắc
chắn hành động táo tợn này sẽ còn lặp lại nhiều lần khác nữa. Sự táo bạo
trong hành động của Trung Quốc khiến nhiều chiến lược gia của Việt Nam
phải giật mình lo ngại. Tiên đoán trước về hành vi này của Trung Quốc có
thể là có, tuy nhiên các chính sách đối phó về trung và dài hạn thì hầu
như chưa được chuẩn bị kỹ càng. Việt Nam dường như đang đối phó một
cách thụ động với các toan tính của Trung Quốc nhiều hơn là chủ động, và
việc này cần phải được thay đổi một cách mạnh mẽ trước hết là trong các
phản ứng tiếp theo.
Răn đe chủ động thông qua sử dụng hải quân
Các phương thức ngoại giao mềm dẻo và
linh hoạt đã được tận dụng triệt để, sự kiên trì của các lực lượng chấp
pháp biển đã được thể hiện và ghi nhận, tuy nhiên có lẽ đã đến lúc nên
tiến hành các chiến thuật “răn đe chủ động” mạnh mẽ hơn nữa. Chuyển từ
thụ động đối phó sang chủ động răn đe sẽ là bước đầu tiên nhằm gia tăng
tiếng nói và tạo được một sức ép lớn hơn lên thực địa. Việc chính thức
đưa lực lượng Hải quân ra các khu vực dàn khoan sẽ là lời đáp mạnh mẽ
đầu tiên.
Thời thế hiện tại đã trở nên thuận lợi
và “hợp lý” hơn cho lựa chọn đưa lực lượng Hải quân chính thức xuất hiện
tại khu vực tranh chấp. Sự xuất hiện của dàn khoan thứ 2 và mới đây là
thông tin cho rằng Trung Quốc trong tương lai sẽ đưa 16 giàn khoan xuống
biển Đông cho thấy Bắc Kinh sẽ không ngừng các hành động leo thang căng
thẳng và chiến lược “biến không tranh chấp thành tranh chấp” để từng
bước khẳng định chủ quyền của mình. Trước mắt, Việt Nam có thể tiến hành
điều chỉnh ngay lập tức cách tiếp cận của mình, với những lý do sau:
Đầu tiên, Hải quân là lực lượng quân sự
chính thức nhằm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và lãnh hải của một quốc gia.
Sự xuất hiện của các tàu hải quân sẽ tạo ra một xung lực mới cùng một
sức ép lớn hơn trên thực địa. Hành động này ngầm đưa một thông điệp tới
Trung Quốc rằng Việt Nam đã sẵn sàng đến mức tối đa nhằm bảo vệ chủ
quyền lãnh thổ thiêng liêng của mình. Chiến thuật này cũng sẽ giúp tạo
ra mặt thuận lợi nhà nước trong việc gia tăng sự ủng hộ của dân chúng.
Việc sử dụng các tàu của Cảnh sát biển và Kiểm ngư đã trở nên dần vô
hiệu và khiến cho các sức ép trên thực địa trở nên không đủ mạnh. Tính
răn đe trong trường hợp này sẽ mạnh mẽ hơn, và quan trọng đây sẽ là hàm ý
ám chỉ trong tương lai về một Việt Nam cứng rắn và quyết tâm trong bảo
vệ chủ quyền.
Thứ hai, việc đưa tàu hải quân ra thực
địa lúc này sẽ chỉ được xem như một hành động tự vệ chính đáng của Việt
Nam. Căng thẳng, và nghiêm trọng hơn là sử dụng chính các tàu quân sự và
máy bay quân sự, máy bay trinh sát xâm phạm vùng biển và vùng trời hợp
pháp của Việt Nam, với mục tiêu là bảo vệ HD-981. Một mặt, các tàu bán
quân sự vẫn sẽ tiến hành nhiệm vụ của mình như từ trước tới nay, mặt
khác sự xuất hiện của các tàu hộ vệ Gepard 3.9 hay các máy bay tuần thám
của không quân hải quân sẽ khẳng định rõ hai điều: (1) chủ quyền vùng
biển đặt dàn khoan HD-981 là của Việt Nam và Trung Quốc đã xâm phạm
nghiêm trọng chủ quyền đó và (2) Việt Nam sẽ sử dụng tất cả các biện
pháp cần thiết để bảo vệ chủ quyền của mình, kể cả biện pháp mạnh mẽ
nhất. Chủ quyền lãnh thổ đã bị xâm phạm, và việc hải quân tham gia bảo
vệ chủ quyền là việc làm hiển nhiên của bất cứ một quốc gia dân tộc nào.
Hiện tại xung đột sẽ rất khó xảy ra. Cả
Việt Nam và Trung Quốc đều hiểu được cái giá của xung đột hiện tại là
lớn tới như thế nào. Bắc Kinh hiện tại cho rằng Việt Nam sẽ không muốn
leo thang căng thẳng. Tuy nhiên, chiến lược thông minh là ở chỗ căng
thẳng leo thang những được kiểm soát để không gây ra xung đột, đặc biệt
là khi căng thẳng phục vụ cho lợi ích quốc gia ở một mức độ nhất định.
Căng thẳng sẽ báo hiệu bước chuyển chiến lược lớn của Việt Nam từ thụ
động đối phó sang chủ động kiểm soát các xung đột. Căng thẳng cũng sẽ
khiến cho Trung Quốc suy nghĩ kỹ hơn về các hành động của mình trong
tương lai.
Vì vậy, làm thế nào để kiểm soát chủ
động các căng thẳng hiện nay? Hay nói cách khác là làm thế nào để sự
xuất hiện của các tàu hải quân không gây ra căng thẳng vượt tầm kiểm
soát trên thực địa?
Trước hết, về mặt triển khai, tàu hộ vệ
tên lửa mới được trang bị Gepard 3.9 của Hải quân cần xuất hiện với mật
độ thường xuyên tại khu vực xung quanh dàn khoan. Khoảng cách hoạt động
là vừa đủ để có thể theo dõi tình huống một cách sát sao, đồng thời
khiến cho phía Trung Quốc nhận thấy được sự hiện diện khả dĩ của một lực
lượng hải quân đủ sức đối phó với bất kỳ tình huống nào. Đi kèm với
Gepard sẽ là các tàu tuần tra hạng nhẹ của Hải quân như là các lớp tàu
Svetlyak hay TTP-400. Một biên đội hợp lý sẽ gồm một Gepard đi kèm với
một hoặc hai tàu tuần tra. Đây là một sự xuất hiện hợp lý và mang tính
răn đe phù hợp. Nhiệm vụ của biên đội tàu Hải quân này trước hết mang
tính “hình thức”, giúp cân bằng lại lực lượng ở thực địa.
Thứ hai, đây sẽ là lực lượng sẵn sàng cơ
động và phản ứng nhanh nhạy một khi có bất cứ sự gây hấn nào vượt tầm
kiểm soát, áp dụng nguyên tắc “gây thiệt hại cho đối phương nhiều nhất
có thể”. Bên cạnh biên đội tàu mặt nước thì các thủy phi cơ DHC-6 mới
được trang bị cũng sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc trinh sát và
đáp trả lại các hành vi xâm phạm chủ quyền của các máy bay quân sự Trung
Quốc.
Việc xuất hiện các tàu hải quân cũng sẽ
không gây ảnh hưởng nhiều tới hình ảnh về một Việt Nam yêu hòa bình và
tuân thủ luật quốc tế nếu kết hợp chặt chẽ với các công cụ ngoại giao
phù hợp. Hải quân Việt Nam không chỉ hoạt động tại các khu vực tranh
chấp mà còn xuất hiện tại các khu vực khác, bảo vệ quyền tự do hàng hải
và quyền đánh bắt cá hợp pháp của không những người Việt Nam mà của các
nước khác trong khu vực. Điều này cần phải được định hướng như là một
trong các chiến lược dài hơi của hải quân, khi mà diện tích của biển
Đông là quá rộng lớn, mà trong đó bộ phận chủ quyền lãnh hải của Việt
Nam là không hề nhỏ. Giải thích rõ ràng các động thái của Hải quân tới
các nước khác sẽ là chìa khóa giúp hợp lý hóa việc triển khai này.
Trong dài hạn, Hải quân và Quân đội nói
chung nên có nhiều hơn những biện pháp chủ động hơn. Các chiến lược nên
được triển khai nhanh chóng và dứt khoát. Hiện tại, việc xuất hiện của
Hải quân sẽ là bước đi cần thiết. Về mặt dài hạn, một chiến lược kiểm
soát tổng thể dựa trên tác chiến phi đối xứng cần được thảo luận một
cách kỹ càng hơn, đặc biệt trong bổi cảnh Trung Quốc sẽ tiếp tục sử dụng
con bài “giàn khoan” nhằm gây sức ép với Việt Nam.
Nguyễn Thế Phương hiện là nghiên cứu
viên tại Khoa Quan hệ Quốc tế,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn, Đại học Quốc gia TpHCM.
Đúng ! Chỉ sử dụng lực lượng kiểm ngư và CSB trên thực địa quá lâu đã làm cho nhuệ khí của nhân dân ngày một suy giảm, Nhân dân xem việc giặc tàu xâm phạm lãnh hải trở thành bình thường thì nguy cơ mất chủ quyền sẽ xãy ra ngay trong nước.
Trả lờiXóaCần tung lực lượng Hải quân Việt Nam ra thực địa để khẳng định tinh thần " Quyết tử vì sự toàn vẹn của tổ quốc ".
Đừng sợ giặc tàu ! Chỉ sợ ý chí quật cường của người Việt bị bẻ cong bởi sự nhu nhược của chúng ta.
VN cần sơn hình quốc kỳ lên các bộ phận khác nhau của tàu để khi xem clip tàu TQ đâm tàu VN sẽ rõ hơn tội của Tàu.
Trả lờiXóaĐừng mơ mà nó sợ. Đừng mơ hồ về việc Trung Quốc họ không biết tỏng lòng dân bây giờ không dành cho đảng nên họ đang dồn đảng vào thế thân bại danh liệt. Cứ ngồi đó mà nghĩ có thể đu dây được với Trung Quốc và Mỹ cũng như đu dây với nhân dân.
Trả lờiXóaMột giải pháp toàn diện và triệt để đó là phải công nhận chính quyền VNCH, thành lập một nhà nước mới có thành phần của VNCH và nhà nước ấy phải dựa trên nền tảng dân chủ. Tiếp đó huỷ bỏ công hàm PVĐ 1958 và khởi kiện Trung Quốc. Làm được việc này CQ vừa lấy được lòng dân trong nước, hải ngoại và dư luận cũng như sự ủng hộ của quốc tế.
Trung Quốc đang lợi dụng sự sợ hãi mất đảng của giới lãnh đạo VN cùng với sự bất mãn trong dân chúng nghĩa là lòng dân không theo đảng nên sẽ tiếp tục leo thang các hành động nguy hiểm. Chắc chắn kế hoạch của Trung Quốc sẽ là "không cần nổ súng vẫn đạt được cái mà họ muốn". Người tàu họ biết rõ Việt Nam có hai thứ mà họ sợ đó là sức mạnh quân sự và lòng dân. Tuy nhiên cả hai thứ đó hiện nay Việt Nam đều không có. Xin nói rõ chừng nào đcs vn còn chần chừ, câu giờ càng làm mất tính chính danh của họ và con đường đòi lại chủ quyền ngày càng khép lại.
Hôm nọ một facebooker Vương Quế Phương hát một đoạn lời ca trong bài "chút thư tình của người lính" có câu "cho dẫu mai kia, thôi không còn biển nữa" mà rùng mình chả lẽ thời đại hào hùng HCM lại để mất nước?
Có lẽ sách lược hiện nay là cứ tỏ ra nhiệt huyết, tỏ ra lo lắng tìm cách bảo vệ chủ quyền, nhưng thực chất là cố tình làm cho rắc rối, trong khi cách xử lý rất đơn giản, lù lù trước mặt!
Trả lờiXóaHết hội thảo này đến tọa đàm kia cũng chỉ để "tỏ ra" mà thôi!