Biển Đông nổi sóng:
Chiến lược ‘hòa bình chủ động’ của Việt Nam
Lê Ngọc Thống
26-06-2014
Việt Nam phải chủ động tham gia vào các cơ chế quốc tế về an ninh, chính trị mới có đủ sức mạnh bảo vệ hòa bình như mong muốn.
Hữu nghị viễn vông và nền hòa bình kiểu Trung Quốc
Tân Hoa xã đã đưa ra “4
không” trước chuyến đi của Dương Khiết Trì sang Việt Nam cùng với thông
điệp cứng rắn, không thiện chí, trong các sai phạm của Trung Quốc trên
Biển Đông: “Thứ nhất, không được đánh giá thấp quyết tâm và năng lực
bảo vệ của Trung Quốc với các đảo trên Nam Hải (Biển Đông; Thứ hai,
không được sử dụng các tư liệu mà Việt Nam tự nhận là “tư liệu lịch sử”
để gây hiểu lầm cho cộng đồng quốc tế và dư luận Việt Nam về chủ quyền ở
Tây Sa, Nam Sa (Hoàng Sa, Trường Sa); Thứ ba, không được lôi kéo các
nước khác can thiệp vào Nam Hải; Cuối cùng là không được phá bỏ mối quan
hệ Việt Trung sau 20 năm bình thường hóa quan hệ”.
Đương nhiên, thái độ,
giọng điệu láo xược của đại Hán khi chưa bị “no đòn” qua giới truyền
thông Trung Quốc (như Tân Hoa xã nêu trên…) và các học giả, tướng lĩnh
khi “chưa thấy quan tài…” thì Việt Nam đã nghe quen tai từ lâu và chúng
ta không cần quan tâm.
Vấn đề rất quan trọng ở đây là chúng ta
nghe, hiểu, để biết được “nền hòa bình Trung-Việt” là nền hòa bình kiểu
gì, mối quan hệ hữu nghị Việt-Trung là hữu nghị kiểu gì…để căn cứ vào
thế, lực của chúng ta hiện nay đến đâu mà phấn đấu gìn giữ hay dứt khoát
loại bỏ.
Từ năm 1949 đến năm 1979,
quan hệ “hữu nghị” Việt-Trung đã quá rõ trong sách trắng “30 năm quan
hệ Việt Nam-Trung Quốc”. Và từ đó đến nay sự “hữu nghị” của Việt
Nam-Trung Quốc cũng quá rõ dù chưa viết thành sách. Vậy, một nền hòa
bình trên nền tảng của mối quan hệ “hữu nghị” như thế sẽ là một nền hòa
bình kiểu gì?
Hai
tàu chấp pháp Trung Quốc chiếc thì phun vòi rồng, chiếc thì đâm húc tàu
Kiểm Ngư Việt Nam trên Biển Đông. Hành động “hữu nghị” kiểu đại Hán?
Tư tưởng đại Hán này của
Trung Quốc chúng ta được biết qua “4 không” nêu trên là qua báo chí,
nhưng chưa hết, chắc chắn sẽ còn phát tiết qua cấp “vĩ mô” mà người dân
không được nghe, không biết…nhưng như thế là đã quá đủ cho một nhận
thức.
Thủ tướng Việt Nam tuyên
bố: “…Việt Nam luôn mong muốn có hòa bình, hữu nghị nhưng phải trên cơ
sở bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển, và
nhất định không chấp nhận đánh đổi điều thiêng liêng này để nhận lấy một
thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào đó”. Đây là tuyên bố mà
dân tộc Việt đã phải kiên trì, chờ đợi, là tuyên bố mà đồng bào Việt
Nam, nhân dân Việt Nam ai cũng hiểu sâu sắc nhất mà không cần giải
thích, không cần thông tư, nghị định hướng dẫn nào hết. Không nghi ngờ
gì nữa, dân tộc Việt đã kết thành một khối.
Có thể nói đây là một
tuyên bố khẳng định tính minh bạch, ý chí và nguyện vọng, nguyên tắc
nhất quán của Việt Nam trong mối quan hệ với Trung Quốc-một nước lớn
láng giềng đầy duyên nợ.
Đừng có đặt vấn đề tại
sao không phải là trước đây mà để đến tận bây giờ, bởi vì, nếu như đó là
một cuộc cách mạng, một sự thay đổi…thì tất cả đều phải có sự chuẩn bị
về lượng, có đủ lượng mới thay đổi được chất, phải có “giọt nước cuối
cùng” để chuyển hóa… Cho nên, tuyên bố của Thủ tướng Việt Nam đã xuất
phát từ cơ sở vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, từ thế và lực của
Việt Nam trong khả năng giữ vững nền độc lập tự chủ, khả năng xây dựng,
duy trì một “nền hòa bình chủ động”…trong tình thế “giọt nước cuối cùng
làm tràn ly” là giàn khoan Hải Dương 981 đã ngang ngược bất chấp hạ đặt
trong thềm lục địa sâu trong EEZ của Việt Nam. Đó chính là thời cơ là
vận nước đã đến.
Đã đến lúc Việt Nam phải chấp nhận “phẫu thuật” khối u dù phải đau và tốn kém.
Phải, không đau sao được
khi nhìn một quả dưa hấu mà trâu bò ăn không hết ở cửa khẩu phía Bắc,
không đau sao được khi những quả vải đỏ au của người dân đang nghẹn chật
con đường, không đau sao được khi lúa của người nông dân bị mua với giá
rẻ…Đau lắm, tốn kém lắm, nhưng phải “phẫu thuật” để chúng ta sẽ có một
cơ thể khỏe mạnh, tự chủ…để con tim Việt Nam không bao giờ ứa máu như đã
từng trước hình ảnh của “Vòng tròn bất tử Gạc Ma”.
Láng giềng hữu nghị và hòa bình chủ động
Việt Nam chỉ không chấp
nhận một quan hệ “hữu nghị viễn vông” nhưng rất hoan nghênh mối quan hệ
láng giềng hữu nghị với Trung Quốc. Mối quan hệ hữu nghị thực sự phải
là: tôn trong độc lập, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào
công việc nội bộ của nhau, hợp tác phát triển đôi bên cùng có lợi.
Đương nhiên, nền hòa bình dựa trên nền tảng hữu nghị như vậy mới thực sự bền vững cho 2 dân tộc.
Trung Quốc là nước lớn,
là cường quốc, là quốc gia có “núi liền núi, sông liền sông” với Việt
Nam. Việt Nam muốn hòa bình (với Trung Quốc), nhưng bản chất của Trung
Quốc là không thay đổi là bành trướng, cậy mạnh, để thôn tính Biển Đông
thì không bao giờ có được mối quan hệ hữu nghị láng giềng thực chất
và đúng chuẩn quốc tế.
Việt Nam yêu chuộng hòa
bình nhưng để có được một nền hòa bình không lệ thuộc thì chỉ còn cách
là phải thực hiện chiến lược “hòa bình chủ động”.
Hòa bình chủ động là gì?
Đó là, về đối nội phải tăng cường sức mạnh răn đe ngăn ngừa chiến tranh,
về đối ngoại là sự chủ động tham gia vào các cơ chế quốc tế về kinh tế
đồng thời quan trọng hơn, là về cả an ninh lẫn chính trị.
Nền hòa bình chủ động
chúng ta có được là bằng sức mạnh răn đe ngăn ngừa chiến tranh, là ý
chí, khả năng giáng trả kẻ thù để bảo vệ nó. Khác với nền hòa bình chủ
động, nền hòa bình thụ động chỉ có được chỉ bằng sự nhân nhượng, đổi
chác lợi ích.
Hãy xem Nhật Bản. Trên lý
thuyết, được bảo vệ dưới cái ô an ninh của Mỹ, nước Nhật khó bị đe dọa,
nhưng sự trỗi dậy của Trung Quốc cùng với các yêu sách chủ quyền hung
hăng từ Bắc Kinh khiến cho nước Nhật chắc chắn không bao giờ chấp nhận
một vai trò thụ động và chỉ trông chờ vào người Mỹ, ngay dù Mỹ là đồng
minh, huống chi, thụ động trông chờ vào Trung Quốc-đối tượng tác chiến
trực tiếp?
Mối quan hệ Nhật Bản-Ấn
Độ, Nhật Bản-Úc, Nhật Bản-Philipines, Indonesia, Việt Nam để tiến hành
“hòa bình chủ động” với Trung Quốc đã và đang chứng tỏ điều đó.
Trong khi đó, Việt Nam
không có ô an ninh nào, nói cách khác là Việt Nam chưa tham gia vào một
“cơ chế” an ninh, chính trị nào trong khu vực. Nếu sức mạnh (tổng hợp)
răn đe ngăn ngừa chiến tranh hạn chế, chưa đủ sức làm cho kẻ thù phải
trả giá đắt không chịu đựng nổi thì một nền hòa bình, nếu có, với Trung
Quốc cũng chỉ là thụ động mà thôi, không thể khác được, trừ phi Trung
Quốc thay đổi bản chất.
Bởi vậy dứt khoát Việt Nam phải xây dựng một chiến lược “Hòa bình chủ động” trong tình hình Trung Quốc đang ngày càng trắng trợn, hung hăng thôn tính Biển Đông như hiện nay nếu như muốn có một nền hòa bình đúng nghĩa, đúng chuẩn quốc tế.
.
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét