“HAI MẶT” CỦA
KINH TẾ TRI THỨC
Tô Văn Trường
Đây là bài viết góp ý cho Hội thảo “Phát
triển kinh tế tri thức Việt Nam” đến năm 2020 và tầm nhìn tới 2030 do giáo sư
–viện sĩ Đặng Hữu, nguyên Trưởng ban
Khoa giáo, nguyên Bộ trưởng Bộ Khoa học & Công nghệ (Chủ nhiệm đề tài
nghiên cứu khoa học độc lập cấp nhà nước) chủ trì.
Theo quy luật tiến
hoá thì nhân loại tích luỹ tri thức . Chuyên gia Vũ Quang Việt cho rằng việc tìm hiểu về phát triển kinh tế trong bối
cảnh thay đổi của lịch sử tư tưởng, chính trị và công nghệ là điều không những
thú vị mà còn giúp thấy được sự ảnh hưởng qua lại giữa điều kiện phát triển
kinh tế và tư tưởng.
Từ năm 1960, sau
hội nghị giữa National Bureau of Economic Research và The Economic History
Association ở Mỹ, việc phát triển và ứng dụng lý thuyết kinh tế và phương pháp
lượng học vào nghiên cứu lịch sử được đặt ra. Chính điều này đã dẫn Douglas C.
North, giải nobel kinh tế năm 1993, người tự coi là bị chủ nghĩa Marx ảnh
hưởng, đã đi đến kết luận là lý thuyết kinh tế tân cổ điển không thôi không
giải thích nổi lý do tại sao nhiều nền kinh tế tiếp tục đình đốn hoặc không
phát triển được trong một thời gian lâu dài. Phải tìm đến vai trò của tư tưởng,
ý thức hệ, thói quen suy nghĩ đối với việc tồn tại lâu dài của một thể chế
không hữu hiệu. Sự kết hợp giữa nghiên cứu thể chế, tư tưởng và kinh tế đòi hỏi
sự lượng hoá kinh tế.
Chúng tôi hiểu kinh
tế tri thức không phải là vấn đề mới. Kinh tế tri thức bao gồm giáo dục, kỹ
thuật, phương pháp quản lý (doanh nghiệp và xã hội. ) . Kinh tế tri thức được
biểu hiện trong cái gọi là multi-productivity, chỉ có thể đo được bằng cách
loại trừ mọi ảnh hưởng khác như tăng lượng lao động, vốn (máy móc và tài nguyên
thiên nhiên). Như vậy là nó có sai số. Trong thời gian IT ra đời người ta nói
đầy rẫy về ảnh hưởng không lường được của cái gọi là kinh tế mới hay kinh tế
trí thức. Nhiều nhà kinh tế thì thấy chúng cũng bình thường, không thấy sự nhảy
vọt của năng suất nói trên. Thị trường chứng khoán của các công cụ này, sau đó sụp đổ.
Chính sách, giải
pháp xây dựng bốn trụ cột của nền kinh tế tri thức ở Việt Nam là : thể
chế môi trường kinh doanh, nguồn nhân lực chất lượng cao, hệ thống đổi mới, hạ
tầng công nghệ thông tin và truyền thông. Trong 4 trụ cột phát triển kinh tế trí thức
mà ban tổ chức hội thảo nêu ra ở trên, còn thiếu hẳn "trụ cột cái" là
thể chế chính trị dân chủ. Chừng nào chưa chuyển đổi được từ toàn trị sang dân
chủ thì mọi biện pháp phát triển kinh tế trí thức đều bị cản trở, cố gắng lắm
cũng chỉ có những kết quả rất hạn chế.
I. TRI THỨC VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI
Phạm trù kinh tế
tri thức ra đời vào năm 1995, do tổ chức ODCP đưa ra. Tuy nhiên, nếu nhìn lại
lịch sử loài người thì phải nhận biết rõ rệt hơn, con người là một sinh vật
biết suy nghĩ nên phát triển vượt bậc khác với các sinh vật khác. Phương Tây đã
có nhà triết học xác định con người là một cây sậy yếu ớt nhưng biết suy nghĩ
(Un roseau
pensant). Như vậy, quá trình phát triển của loài người cũng là quá trình phát
triển của trí tuệ, của tri thức. Quá trình này đi từ bản năng, kinh nghiệm tích
lũy được dần phát triển đến trình độ nhận biết và vận dụng được các quy luật
của tự nhiên và xã hội để thực hiện quá trình tự tái sản xuất mở rộng, dẫn đến
trình độ như hiện nay.
Phát triển tri thức
trong lĩnh vực nhận biết và vận dụng các quy luật của tự nhiên, loài người đi
từ biết sử dụng các gậy gộc để đi đến thời kỳ đồ đá, đồ đồng, đồ sắt, … tiến
tới trình độ cơ giới hóa và tự động hóa như hiện nay. Trong lĩnh vực nhận biết
và vận dụng các quy luật xã hội, loài người đã trải qua các phương thức sản
xuất khác nhau, đi từ chế độ xã hội cộng đồng nguyên thủy, qua chế độ xã hội nô
lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa để rồi tiếp tục phát triển sang một chế độ xã
hội cao hơn mang tính chất vòng xoáy ốc.
Trong quá trình
nhận biết và vận dụng các quy luật khách quan đó, đứng về mặt kinh tế, con
người đã từng xác định thời gian cấm rừng, cấm đánh bắt cá vào các mùa sinh
sản, đã biết lợi dụng năng lượng của nước, của gió, … để đi tới sử dụng máy hơi
nước, rồi biết sử dụng điện năng và phát hiện nhiều nguồn năng lượng khác có thể
chuyển hóa thành điện năng. Với các loại khóang sản cũng có tình hình tương tự
như vậy. Quá trình đi tới nền văn minh nông nghiệp cũng là quá trình chuyển từ
kinh tế lượm hái sang kinh tế trồng trọt, từ kinh tế săn bắt sang kinh tế chăn
nuôi. Quá trình này, tri thức của loài người đã từ bản năng và kinh nghiệm để
đi tới nhận biệt các quy luật của di truyền để chọn lọc, lai tạo các loại giống
cây trồng và vật nuôi (thậm chí cả đối với bản thân con người qua việc quy định
cấm hôn nhân cận huyết thống) do đó công nghệ gien, được coi là một thành tựu
mới của khoa học kỹ thuật sinh học cũng chỉ là bước phát triển của tri thức mà
loài người đã tích lũy được.
Song trong quá
trình nhận biết và vận dụng các quy luật của tự nhiên, loài người cũng phạm
những sai lầm nghiêm trọng vào kéo dài đến ngày nay. Tuy nhận biết sai lầm đó
nhưng vẫn chưa thống nhất được cách khắc phục. Có thể nêu một vài trường hợp cụ
thể trong một lĩnh vực quan trọng sau đây :
Trong lĩnh vực năng
lượng, việc phát minh máy hơi nước và chuyển lên thành máy phát điện đã dẫn đến
hoàn thiện công nghệ này và được hiệu suất sử dụng ngày càng cao nên đem lại
nhiều hiệu quả kinh tế. Thế nhưng con đường đó cũng đã dẫn đến nguy cơ cạn kiệt
nguồn năng lượng khoáng sản, dầu khí, gây ô nhiễm môi trường, …Thế giới và Việt
Nam đã đi vào con đường phát triển thủy điện nhưng bên cạnh mặt lợi ích, vẫn có
những mặt hạn chế, tác hại và VN đã nếm mùi dẫn đến phải loại khỏi quy hoạch
hàng trăm đề án thủy điện. Trong điều kiện đó, có thể nói là vào khoảng nửa đầu
thế kỷ XX, các nhà khoa học đã tìm kiếm và sáng tạo ra công nghệ sản xuất điện
năng từ năng lượng thủy triều, năng lượng gió, năng lượng địa nhiệt, …. và nổi
bật là năng lượng nguyên tử. Trong các nguồn năng lượng mới đó, năng lượng
nguyên tử được nghiên cứu ứng dụng từ vào lĩnh vực ý tế sau đó được tập trung
vào nhiệm vụ phục vụ chiến tranh dẫn đến việc sản xuất các loại bom nguyên tử,
bom kinh khí, … Từ thành tựu của việc nghiên cứu sử dụng năng lượng nguyên tử
đó, các nhà đầu tư đã chuyển sang lĩnh vực kinh tế với việc đầu tư phát triển
các nhà máy điện nguyên tử, sử dụng uranium, nguyên liệu được dùng để chế tạo
các vũ khí nguyên tử.
Ngày nay, các nhà
khoa học đã nghiên cứu và khẳng định khả năng sử dụng plutonium vào sản xuất
điện năng với độ an toàn hơn, thời gian tan rã các thanh nhiên liệu này ngắn
hơn và đặc biệt là không thể dùng để sản xuất vũ khí nguyên tử. Thế nhưng để
chuyển sang việc sử dụng nguyên liệu mới đó thì đỏi hòi vừa phải đầu tư để vừa
tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiên công nghệ mới, vừa phải nghiên cứu chuyển đối
các nhà máy hiện có sang sử dụng nhiên liệu mới nên các nhà đầu tư không sẵn
sàng thực hiện việc chuyển đổi sang công nghệ mới và nhiều Chính phủ cũng không
mặn mà đầu tư hỗ trợ việc chuyển đổi này. Đối với việc sử dụng năng lượng thủy
triều cũng có tình hình tương tự. Mãi gần đây, nước Anh mới tiến hành đầu tư
xây dựng nhà máy điện thủy triều lớn nhất thế giới và nếu thành công trong vận
hành thì sẽ tiếp tục đầu tư vào phát triển nguồn năng lượng này, hạn chế sử
dụng các nguồn năng lượng gây ô nhiễm và không có khả năng tái sinh.
Trong lĩnh vực nông
nghiệp, thế kỷ XX đã triển khai việc phát triển công nghệ hóa học để hóa học
hóa nông nghiệp. Quá trình này cũng đã tạo bước phát triển vượt bậc của nông
nghiệp song cũng để lại nhiều di hại như làm cho đất bị suy thoái vì không được
bổ xung nguồn phân hữu cơ tạo độ phì của đất, dẫn đến việc ô nhiễm môi trường
và tiêu diệt nhiều loại sinh vật cộng sinh, kể cả sinh vật có hại và có
lợi. Phải hàng chục năm sau, chúng ta
mới bắt đầu thấy và ngấm tác hại của con đường hóa học hóa nông nghiệp. Trong
khi đang phải khắc phục tổn hại của con đường hóa học hóa nông nghiệp thì ngày
nay lại đang rộ lên vấn đề công nghệ biến đổi gien, coi đây là một mũi nhọn của
kinh tế trí thức trong nông nghiệp. Thế nhưng, cũng trên thế giới đã có nhiều
cảnh báo về nguy cơ, tác hại của công nghệ biến đổi gien nhưng các tập đoàn đầu
tư vào lĩnh vực này lại đang tích cực lobby để tác động đến đường lối hiện đại
hóa nông nghiệp, bất chấp lời cảnh báo về tác hại của giống biến đổi gien.
Kinh tế tri thức không phải là vấn đề mới
Xuất phát từ nhận
thức trên, có thể thấy vấn đề vận dụng tri thức vào lĩnh vực phát triển kinh tế
là một tất yếu khách quan đã được thực hiện từ hàng ngàn năm nay (nếu không
muốn nói từ lâu hơn nữa) nên không phải là một vấn đề mới. Song trong quá trình
đó, chúng ta cũng đã phạm sai lầm nghiêm trọng kéo dài dẫn đến những tổn thất
nghiêm trọng mà ngày nay thế giới đã phải công nhận và tìm cách khắc phục.
Do đã nhận thức
được các mặt trái của quá trình vận dụng các quy luật khách quan nên đến nay,
trên thế giới đã hình thành phong trào đổi mới mô hình tăng trưởng, gắn với
phát triển kinh tế xanh, công nghệ sinh thái, … phù hợp với nhiệm vụ bảo vệ và
phát triển môi trường. Phải chăng vì nhận biết được sự cần thiết
cần phải điều chỉnh cách vận dụng các quy luật khách quan theo một chiều hướng
mới để khắc phục những sai phạm nghiêm trọng kéo dài nên OPCD đề xuất khái niệm
kinh tế tri thức? Do đó, phải chăng khi nói đến kinh tế tri thức là phải nói đến nhiệm vụ điều chỉnh cách vận
dụng các quy luật khách quan để khắc phục vết xe đổ mà nhân loại đã mắc phải?
Xã hội nào cũng có tri thức
Xã hội nào cũng có
tri thức, ngay cả xã hội ăn lông ở lỗ. Tri thức kiểu đó chỉ là kinh nghiệm được
đúc kết lại. Người ta, sau đó có thể làm ra thuốc súng, làm ra giấy nhưng chỉ
là những khám phá bất ngờ không hiểu nguyên lý. Những kinh nghiệm xã hội biến
thành tôn giáo, tư tưởng cổ lỗ học ở khắp mọi nơi đã kìm tỏa sự phát triển của
thế giới cả mấy nghìn năm.
Cho đến khi tri
thức đạt được sự thay đổi đột biến. Đó là khi thoát khỏi vòng kìm tỏa của tôn
giáo và tư tưởng cổ lỗ, thời đại khoa học đã mở ra đi tìm ra các nguyên lý hay
các qui luật của khoa học (về đủ mọi ngành nghề) và trên cơ sở đó phát triển
các sản phẩm, công cụ hay phương pháp sản xuất và quản lý nhằm tăng năng suất
lao động phát triển kinh tế, đồng thời quản lý và điều hòa quyền lợi cũng như
quyền lực của các nhóm quyền lợi khác nhau trong xã hội.
Như thế, trên cơ sở
tinh thần khoa học, mọi vấn đề, mọi cái tưởng dù đã được coi là nguyên lý đều
có thể bị đặt lại. Xã hội nào xây dựng được thể chế chấp nhận việc đặt lại vấn
đề, cho phép tự do tư tưởng và học thuật, và có cơ hội phát triển sáng kiến thì
xã hội đó sẽ tiến nhanh chóng. Xã hội nào đi ngược lại thì rốt cuộc bị buộc
chân vào những huy hoàng của quá khứ và thoái hóa.
Kinh tế trí thức và chuyên chính vô sản
Theo Gs Nguyễn
Lang, không chỉ có chuyên chính vô sản mà chế độ xã hội nào, nhà nước nào cũng
đểu thực hiện sự chuyên chính của giai cấp cầm quyền. Dưới chế độ nô lệ, đụng
đến nhà nước nô lệ, đến chuyên chính của giai cấp chủ nô có được không ? Dưới
chế độ phong kiến, đụng đến nhà Vua thì
đứng trước nguy cơ tru di tam tộc. Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa đụng đến nhà
nước của giai cấp tư sản và lợi ích của
giai cấp tư sản có được không ? Vấn đề nợ trần của Mỹ là một dẫn chứng cụ thể.
Các cuộc cách mạng mầu, cách mạng mùa xuân Ả rập, và các cuộc nội chiến ở
Syrie, Ai cập, ... đều mang tính chất chuyên chính của một giai cấp, của một
nhóm người cụ thể.
Mặt khác, nếu giai
cấp cầm quyền không có chú trọng thỏa đáng đến lợi ích của nhân dân thì trước
sau cũng bị nhân dân phế truất. Nhìn vào
lịch sử Việt Nam (cũng như Trung Quốc) sẽ thấy nguyên nhân dẫn
đến thay đổi triều đại trị vì. Cón nhìn vào Tây Âu thì cũng thấy chế độ chuyên
chính của giai cấp phong kiến + áp đặt chế độ thần quyền là nguyên nhân dẫn đến
thời đai phục hưng, cuộc cách mạng công nghiệp và cuộc cách mạng tư sản dân
quyền. Điều đó liên quan đến việc chế độ chuyên chính bị tha hóa.
Kinh nghiệm lịch sử
cũng cho thấy là có mối liên kết giữa các giới giang hồ với một số chính giới
làm rối loạn quan hệ giữa nhà nước và người dân. Thông tin mới nhất từ EU cho
thấy tham nhũng đã làm nền kinh tế EU bị thiệt hại với khối lượng tương tự ngân
sách EU..
Cũng phải nói thêm
là khi đã có một khối đông cá thể cùng sinh sống thì cần có chế độ mà F. Ăng
ghen gọi là quyền uy và đã dẫn chứng là trên một con tầu vượt đại dương, mọi
người trên tầu phải phục tùng lệnh chỉ huy của thuyền trưởng.... Còn Mác thì
nói một dàn nhạc thì phải có nhạc trưởng. Điều đó không phủ định hoạt động có
sáng tạo, chủ động của mọi người dưới quyền. Bản thân chúng ta, khi thực hiện
giao thông thì đều phải đi bên phải và tuân thủ luật giao thông. Do đó F.Ăng
ghen kết luận là nếu xóa bỏ quyền uy trong công nghiệp thì chẳng khác nào xóa
bỏ nhà máy sợi để quay về cái xa quay tơ.
Thể nhưng tập trung
quyền lực, thực hiện quyền uy phải bảo đảm thực hiện theo nguyên tắc tập trung
dân chủ (tập trung một cách dân chủ chứ không phải là vừa tập trung, vừa dân
chủ).
Do đó, đề nghị xem
xét lại vấn đề chuyên chính vô sản, đặt trong thực trạng chuyên chính chung
trong lịch sử và trong vấn đề tha hóa chuyên chính đó vì tập trung vào phục
vụ lợi
ích của một nhóm người, bất chấp quyền lợi của đa số nhân dân.
Bất cứ sự phát
triển nào cũng cần có cơ chế hãm để không đi quá đã. Rõ nhất là các soupape của
nồi hơi, các relais trên đường dây điện. Do đó, khi giao quyền lực cho một
người (hoặc nhóm người) thì cũng cần có cơ chế hãm để không dẫn đến việc làm
dụng quyền lực. Một số trong những cơ chế hãm đó là việc thực hiện nguyên tắc
tập trung dân chủ, thực hiện cơ chế giám sát và phản biện xã hội.
Trí thức là người
có khả năng nhận biết các quy luật của tự nhiên, xã hội để từ đó vận dụng quy
luật đó để đảm bảo nhu cầu, lợi ích của người (hoặc nhóm người) cụ thể.Vì thế
nên cũng cần thấy là người trí thức cũng còn là người mang bản chất giai cấp cụ
thể. Ngay từ dưới chế độ nô lệ đã có những nhà trí thức và nhận thức về thế
giới quan trong chừng mực nhất định bị chi phối bởi điều kiện lịch sử xã hội
đương thời. Dưới sự áp bức, đè nén của chế độ phong kiến và chế độ thần quyền
của giáo hôi, tại các nước châu Âu, xuất hiện vai trò của lớp người trí thức
dẫn đến thời kỳ phục hưng, đến cách mạng công nghiệp và cách mạng xã hội. ..
Từ đó có thể đặt
câu hỏi :
- Đội ngũ cán bộ
chiến lược của chúng ta còn đứng trên lập trường của giai cấp công nhân không
hay đã bị tha hóa ở những mức độ nhất định ?
- Các nhà trí thức là bộ phận cấu thành chủ yếu
của đội ngũ cán bộ chiến lược này, trên thực chất, là đứng trên lập trường của
giai cấp nào để tham gia vào quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện các chiến
lược, quy hoạch..
Theo chúng tôi
hiểu, quan điểm ban đầu của Mác coi Nhà nước là công cụ thống trị của giai cấp
cầm quyền, do đó giai cấp vô sản phải dùng bạo lực lật đổ nhà nước tư sản và
thực hành chuyên chính vô sản. Lênin từng nói : Chuyên chính vô sản là hòn đá
thử vàng xem ai thực sự là mác-xít. Đến cuối đời (1883), Mác nói trong lần góp
ý về cương lĩnh của Đảng công nhân Pháp: phổ thông đầu phiếu từ chỗ là thủ đoạn
của giai cấp tư sản cầm quyền nay có thể là phương thức mà giai cấp lao động sử
dụng để giành chính quyền.
Trong quá trình
phát triển của xã hội loài người, dân trí ngày càng được nâng cao, đặc biệt là
tinh thần sáng tạo (kinh tế tri thức)
của tầng lớp trí thức, không chỉ về khoa học-công nghệ (tự nhiên, ký
thuật) mà cả về kinh tế-xã hội mà tư tưởng chủ đạo là thực thi dân chủ, tôn
trọng quyền làm chủ của nhân dân. Quan điểm về "Khế ước xã hội", về
"Tam quyền phân lập" vv... ngày càng được nhiều người ủng hộ và phát
triển thêm, đẩy lùi lý thuyết coi Nhà nước chỉ là công cụ chuyên chính của giai
cấp thống trị. Lập trường của Engels khi thành lập Quốc tế thứ hai theo chủ
nghĩa xã hội-dân chủ (đúng ra phải gọi là dân chủ xã hội, với dân chủ là chủ
ngữ) có sức sống cho đến ngày nay với phong trào Quốc tế xã hội gồm gần 150
Đảng, trong đó khoảng 50 đảng có vai trò cầm quyền hoặc tham gia cầm quyền. Một
thực tế được thế giới công nhận là những nước thực hành chủ nghĩa xã hội-dân
chủ (khác hẳn chủ nghĩa xã hội toàn trị mang danh chuyên chính vô sản), điển
hình là mấy nước Bắc Âu, được coi là những nước mà xã hội phát triển cao và
người dân thực sự được tự do hạnh phúc nhất.
Một số nước không
đi theo chủ nghĩa xã hội dân chủ, kể cả một số nước còn duy trì vai trò của
vương quyền (Nhật, Anh, Thái Lan, Malaysia..) nhưng thiết lập và không ngừng
hoàn thiện thể chế dân chủ, bảo đảm nhân quyền thì vẫn là những nước phát
triển, chăm lo an sinh xã hôị hơn hẳn mấy nước theo chế độ toàn trị, đặc biệt
là những nước do Đảng cộng sản cầm quyền.
Thực tế ở nước
ta cho thấy rõ "chế độ toàn trị của Đảng cộng sản" (thực chất là của
giới cầm quyền nhân danh Đảng cộng sản và giai cấp công nhân) là nguyên nhân cơ
bản khiến cho đất nước bị tụt hậu, xuống cấp về mọi mặt như ngày nay. Vì vây,
nguyện vọng của "kẻ sĩ" cùng với đông đảo nhân dân là phải làm sao
chuyển đổi thể chế chính trị từ toàn trị sang dân chủ một cách ôn hòa, không
dùng bạo lực, tránh đổ máu. Muốn vậy, phải gạt bỏ trở ngại đầu tiên về tư duy
coi "chuyên chính của một giai cấp" là tất yếu.
II.
NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC VIỆT NAM.
Trong quá trình
phát triển kinh tế VIệt Nam, nhất là từ khi bước vào quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nền kinh tế (mở đầu từ sau khi giải phóng Miền Bắc), chúng ta tuy
đã có những bước phát triển, đưa nước ta ra khỏi nhóm các nước kém phát triển
nhưng trong quá trình đó, đã đi vào “vết xe đổ”
mà thế giới đã mắc phải. Do đó,
phải chăng nhiệm vụ phát triển kinh tế trí thức Việt Nam mang nội hàm điều
chỉnh lại chiến lược, quy hoạch chính sách phát triển, ứng dụng khoa học công
nghệ để thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nề kinh tế nói chung?
Cơ hội và thách thức đối với VN.
- Cơ hội đối với chúng ta thể hiện
trên hai bình diện chủ yếu. Về phương diện khách quan, nước ta đã phá thế cấm
vận của đế quốc Mỹ và trên thế giới việc nghiên cứu triển khai những công nghệ
mới và điều chỉnh cơ chế vận hành nền kinh tế cũng đã có nhiều tiến bộ. Trong
hoàn cảnh đó, chúng ta có thể thực hiện phương châm đi tắt, đón đầu để tiếp cận
với những công nghệ mới và cơ chế quản lý mới. Về phương diện chủ quan, Đường
lối của Đảng và Nhà nước về chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ tăng trưởng nhanh
sang tăng trưởng bền vững, tăng trưởng xanh tạo điều kiện cho chúng ta thoát
khỏi vết xe đổ của quá trình phát triển trước đây để tiếp cận và vận dụng các
công nghệ mới, cơ chế quản lý mới ở cả tàm vi mô và vĩ mô.
- Thách thức đối với Việt nam cũng
thể hiện trên hai bình diện đó. Cụ thể là các nước có xu hướng chuyển giao công
nghệ cũ cho Việt nam (và các nước chậm phát triển khác) để thay thế bằng công
nghệ mới. Do đó đã có lời cảnh báo là Việt Nam có thể trở thành bãi rác công
nghệ phế thải của thế giới. Thực tế là trình độ công nghệ của nền kinh tế nước
ta đã lạc hậu hàng vài ba thế hệ so với các nước trong khu vực. Mặt khác, với
một số công nghệ hiện đại tuy đã phát triển nhưng chưa có điều kiện đánh giá
đúng mức mặt tích cực và mặt tiêu cực, chẳng hạn như công nghệ biến đổi gien,
các tập đoàn kinh tế nước ngoài đang lobby để đưa vào sản xuất rộng rãi ở nước
ta. Mặt khác là các tệ nạn tiêu cực xã hội trong lĩnh vực đầu tư cũng là một
trong nhứng nguyên nhân tạo sự thách thức nghiêm trọng đối với việc đầu tư đi
đón đầu trong việc phát triển kinh tế tri thức.
Về phương diện này,
chỉ xin nhắc lại kết luận của Hội nghị TƯ 3, Khóa XI (Văn kiện trang 41) là “Chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính
sách đầu tư phải có tầm nhìn xa, không bị “tư duy nhiệm kỳ”, tư tưởng cục bộ,
bệnh thành tích, chủ quan duy ý chí hay “lợi ích nhóm” chi phối.”
Đây là vấn đề liên
quan đến phẩm chất và năng lực của đội ngũ quản lý (các CEO) và bộ máy giúp
việc. Ngoài ra, còn phải thấy rõ hơn một thách thức chủ quan bắt nguồn từ việc
ngân sách cũng như vốn của các doanh nghiệp VN còn nhỏ bé, lại không có sự liên
kết với nhau một cách thích hợp nên không đủ nguồn vốn đầu tư cần thiết để tiếp
nhận các công nghệ mới, thay thế công nghệ cũ và hiện đại hóa cơ chế vận hành,
quản lý từ cấp vi mô đến cấp vĩ mô của nền kinh tế.
Ngoài ra, thách
thức đối với Việt Nam là không có bất cứ 1 công ty hay một nhóm đứng ra tổ chức
để làm cầu nối giữa các venture capitalist (người có tiền) và người có sáng
kiến. Israel
là một đất nước có tỷ lệ công ty khởi nghiệp được thành lập trên dân số cao
nhất so với các quốc gia khác. Trung bình có 1 công ty khởi nghiệp/2.000 dân.
Trung tâm khởi
nghiệp quốc gia Israel
cho biết: 3 yếu tố trực tiếp dẫn đến khởi nghiệp thành công là chính sách của
chính phủ, sự năng động của công dân (trong đó có dân nhập cư) và sự đóng góp
của môi trường quân đội. Theo nghiên cứu của nhà báo Kim Hạnh
http://www.thanhnien.com.vn/pages/20140209/bi-quyet-thanh-cong-cua-cong-ty-khoi-nghiep-israel.aspx thì yếu tố đóng góp sâu sắc, căn cơ nhất
chính là do nền giáo dục, do quá trình tạo dựng “gien cơ bản” cho tinh thần
khởi nghiệp trong mỗi công dân nước này.
Theo chúng tôi
hiểu, cái cầu nối này cần có:
- Kinh nghiệm đánh
giá dự án hay ý tưởng, gạt ra những gì viển vông, như vậy cũng cần những người
chuyên môn, hiểu thị trường.
- Hiểu biết về luật
pháp (hoặc cần có luật sư) thảo ra các hợp đồng bảo vệ người sáng tạo, vừa bảo
vệ sáng kiến, vừa bảo về quyền hưởng thụ của họ. Người có tiền chủ yếu muốn làm
giầu và đồng thời muốn vắt chanh người sáng tạo. Có ý kiến cho rằng venture
capitalist được hưởng khoảng 5% cổ phần gì đó thôi. Thời gian thử nghiệm có
hạn, sau đó chia tay nếu không thành công (vì nhiều lý do, một trong hai lý do
quan trọng là người venture capitalist không chịu tiếp tục bỏ thêm tiền, còn lý
do khác là sáng kiến tồi), nhưng khi đó quyền sáng kiến được bảo vệ đến lúc
nào, mức nào.
- Phân biệt rõ ràng
giữa phát triển sáng kiến thành sản phẩm và việc mua sản phẩm đã làm rồi . Đây
là 2 hướng tác nghiệp khác nhau. Hướng sau không thể gọi là cầu nối sáng tạo,
mà là các hành động take-over những công ty đã có sản phẩm nhưng không biết
quản lý, không biết marketing.
- Về vấn đề khởi
nghiệp, chúng tôi nghĩ một nhóm tư nhân hoàn toàn có thể đứng ra tổ chức làm
cầu nối giữa người có ý tưởng sáng tạo và người có tiền muốn đầu tư rủi
ro. Nhóm phải tổ chức những cuộc gặp gỡ
thường xuyên. Nhóm có thể đánh giá sơ bộ ý tưởng của người sáng tạo và chọn lựa
các dự án được trình bày trong các cuộc gặp gỡ, hướng dẫn việc sửa soạn ý tưởng
dự án và thử nghiệm ban đầu (ngân sách), thiết lập các nguyên tắc cơ bản trong
việc hưởng cổ phần của người bỏ tiền đầu tư và quyền của người sáng tạo. Một tổ chức như thế có thể là một công ty phi
vụ lợi được chính phủ tài trợ, hoặc là một công ty vụ lợi ăn hoa hồng (%) trên số vốn bỏ ra, hay được trả bằng cổ phần
trong công ty khởi nghiệp.
- Theo thông tin
http://www.theatlantic.com/international/archive/2014/02/can-vietnam-create-the-next-silicon-valley/283760/ được biết đã có người bắt đầu khởi động hoạt
động sáng tạo và có sự đóng góp của Bộ Khoa học và Công nghệ.
According to Linh,
the Ministry of Science and Technology has earmarked $3 million for the
project, as well as $50 million per year for “the application of technology
through startups” and $100 million to develop the tech industry through a joint
project with the World Bank. Đây là dự án của Bộ, chỉ tập trung vào IT, huấn luyện, giúp làm đề án, tạo cơ hội gặp gỡ
vv...
Theo tài liệu
http://siliconvalley.com.vn cho thấy họ đi đúng hướng, chứ không nhằm xây các
khu công nghệ cao như hồi xưa.
Bài học kinh nghiệm
Nhiều bài viết
trước đây, tôi đã đề cập đến kinh thế tri thức liên quan đến tài nguyên nước ,
môi trường và nông nghiệp. Thảo luận với GS Phạm Gia Khai, tôi lĩnh hội
về kinh tế tri thức trong ngành y rất đáng suy ngẫm. Một bộ phận của khoa học kỹ thuật
trong y học, không thể thiếu vắng, mà nếu bị ngưng trệ sẽ kéo theo
sự ngưng trệ to lớn hơn trong y học và nhiều ngành có liên quan.
Phương
pháp tiếp cận khoa học : Ở đây có sự giao thoa giữa phương
pháp luận hiện đại với khoa học chuyên ngành. Cách học ở Liên xô cũ
có điểm tốt là giúp học viên tích lũy nhiều nguyên lý. Học ở Hoa Kỳ
có điểm tốt là trình bầy một vấn đề có thảo luận tự do, không bị
gò bó trong bất kỳ một khuôn khổ nào, nhưng đồng ý hay phản bác bất
cứ một vấn đề gì cũng phải có chứng cứ cho lập luận của mình.
Các đồng nghiệp
Hoa Kỳ cho biết là theo họ nhận xét, các trường Đại học ở Mỹ khác nhau chủ yếu là ở "phần
mềm", và phần mềm là ở đây, người thầy có vai trò quan trọng
là phát triển và giúp đỡ học viên phát triển phần mềm đó. Một chi
tiết nên chú ý: Phương pháp thống kê của mỗi chuyên ngành là quan trọng,
có một bạn Pháp kể lại truyện: Một bác sĩ trình bầy một vấn đề
ở Montreal, Canada, không nói tới giá trị của công trình qua kiểm
nghiệm thống kê, kết quả: Thính giả bỏ ra về.
Học
những vấn đề giúp giải quyết những yêu cầu của thực tế cuộc sống
Theo Gs Phạm Gia
Khai với kỹ thuật thích hợp trong
điều kiện của nước ta, ví dụ trong y học lâm sàng, thấy chẩn đoán các
tổn thương tim mạch bằng siêu âm là có lợi, không những cho tim mạch,
mà cho nhiều chuyên khoa khác, và cuối cùng, kỹ thuật siêu âm đã được
áp dụng thường qui trong tất cả các bệnh viện của nước ta, trở
thành tiếng nói chung cho các thầy thuốc lâm sàng không những của VN,
mà cả với thế giới nữa.
Tim mạch can
thiệp cũng vậy (interventional cardiology). Gs Phạm Gia Khai đã giúp nong
rộng, đặt giá đỡ (stent) cho động mạch vành bị hẹp, nong rộng van hai
lá bằng bóng qua da, triệt phá các ổ phát sinh loạn nhịp tim với
năng lượng radio, bít các luồng thông bất thường giữa các buồng tim.
Toàn quốc đã phát triển ngành này, giúp VN có vị trí trong khu vực.
Kết
hợp các chuyên ngành với nhau
Trong tim mạch:
lâm sàng nội khoa kết hợp với tim mạch can thiệp, phẫu thuật tim mạch
với tuần hoàn ngoài cơ thể, đã đưa ngành tim mạch VN lên vị trí xứng
đáng trong nước và khu vực, tạo điều kiện cho chúng ta hòa nhập thế
giới, tiến bộ không ngừng.
Cần có sự liên
thông giữa các ngành khoa học, vật lý, hóa học, sinh vật học, cho
nên, người cán bộ khoa học, một
mặt phải có chuyên sâu, mặt khác, phải có kiến thức chung, giúp đỡ
nhiều cho chuyên ngành của mình, và cuối cùng, cho đối tượng phục vụ
là xã hội.
Vì không hiểu rõ
về sự nguy hiểm của cộng hưởng từ hạt nhân (Magnetic resonance imaging)
khi tiếp xúc với kim loại, nên đã có trường hợp thầy thuốc chỉ định
thăm dò tim mạch với cộng hưởng từ hạt nhân trên một người đã đặt
stent động mạch vành, kết quả: Stent bị di lệch, gây tai biến cho
người bệnh, đó là kinh nghiệm của VN, còn theo y văn gần đây: Tại
Trung Quốc ở một bệnh viện phẫu
thuật, bỗng phát ra một tiếng nổ lớn ngay trên bàn mổ một nữ bệnh
nhân chướng bụng do ăn uống nhiều quá, trong hơi dạ dày của người
bệnh này có rượu, khi tiếp xúc với dao điện, tia lửa điện gây tiếng
nổ và hỏa hoạn ngay tại phòng mổ.
Cần
thiết phát triển mạng lưới
Công việc này giúp
xác định các nhóm, các cá nhân, thực sự có khả năng làm được một
số việc có lợi cho sự hợp tác đa chiều: Việc này giúp các nhà khoa
học tiết kiệm được nhiều công sức, nhưng ta phải có cách phát triển
được tinh thần hợp tác nhóm (team work), mà chúng ta còn rất kém, tư
tưởng giữ tủ, không ai chịu ai, vẫn còn nặng nề ở VN. Dùng biện
pháp nào để khắc phục, khẩu hiệu xuông không đủ, ở đây, quyền tác
giả phải được đề cao (intellectual property). Hiện nay, sự đãi ngộ đối
với khoa học kỹ thuật còn quá thấp, chứng tỏ cách suy nghĩ của một
số người quản lý còn bất cập với tình hình trong và ngoài nước.
III. LIÊN HỆ GIỮA KINH TẾ TRI THỨC VÀ CHIẾN
LƯỢC PHÁT TRIỂN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
Lỗ hổng lớn nhất
của bản chiến lược phát triển KHCN giai
đoạn 2011-2020 được Thủ tướng phê duyệt chính là khi bàn về khoa học xã hội và
Nhân văn. Chúng ta chưa mạnh dạn, đánh giá cho đúng sự lạc hậu, thậm chí là lạc
điệu so với khoa học xã hội của thế giới. Vì trong một thời gian quá dài, cho
đến hiện nay vẫn vậy, khoa học xã hội chỉ là một công cụ minh họa cho đường lối
chính sách của Đảng, nó không đáng được gọi là một NGÀNH KHOA HỌC theo nghĩa
đích thực của nó. Bởi thế, các nhà khoa học Việt Nam dù có tài giỏi, trí tuệ cũng
không thể hòa đồng hay tiếp cận với khoa
học xã hội của thế giới vì tư duy về
phương pháp luận hoàn toàn khác nhau.
Muốn xây dựng một
ngành khoa học xã hội đúng với vai trò và chức năng, nhiệm vụ đích thực của nó
phải thay đổi tận gốc tư duy về khoa học xã hội, gần như phải xóa đi làm lại từ đầu, trả về
cho nó chức năng khoa học đích thực. Thực tế cuộc sống đòi hỏi đào tạo và tuyển chọn lại đội ngũ người làm khoa học xã hội. bao gồm
những người được đào tạo tại các trường đại học danh tiếng ở nước ngoài, mời
những chuyên gia giỏi người Việt ở nước ngoài về nước tham gia đào tạo đội ngũ khoa học trẻ được thanh lọc và tuyển chọn
trong nước đồng thời, biết cách mời gọi những nhà khoa học xã hội đã có quá
trình đào tạo và nghiên cứu tốt, có công trình xuất bản được giới khoa học
trong và ngoài nước thừa nhận trở lại giúp thêm vào công cuộc đào tạo các cán
bộ nghiên cứu trẻ.
Chiến lược phát
triển khoa học và công nghệ của một nước thường gồm 6 thành tố sau
đây :
(i) Đánh giá đúng thực trạng và các vấn đề nổi cộm của nền khoa học và
công nghệ nước nhà;
(ii) Xác định
đúng đòi hỏi về khoa học và công nghệ của nước nhà (thí dụ trong 10
năm tới);
(iii) Lựa chọn một cách thông minh những ngành
khoa học công nghệ mũi nhọn, những khâu đột phá; Con đường, các nguồn
lực và các biện pháp phát triển khoa học và công nghệ của nước
nhà, trong đó mấy điều rất quan trọng là
từ chỗ học hỏi, du nhập, làm theo khoa học và công nghệ của
thế giới đến chỗ tạo ra khoa học và công nghệ của nước mình ;
(iv) Thiết lập
các điều kiện thuận lợi cho các nhà khoa học, nhà công nghệ của nước mình hoạt động
và giao lưu, hội nhập quốc tế;
(v) Xây dựng đội
ngũ các nhà khoa học và công nghệ.
(vi) Tổ chức các cơ quan khoa học và công
nghệ của nước nhà.
Trong 6 thành tối
liệt kê ở trên thì chiến lược phát triển KHCN ở Việt Nam đã trả lời 3 vấn đề nhất là vấn đề thứ 3 còn thiếu ý nói tới vấn
đề cuối cùng. Hay nói cụ thể hơn, với thành tố (ii), trong các lĩnh vực, luôn
có cây mục tiêu nên việc xác định này liên quan đến yêu cầu chọn đúng đoạn nào
của cây mục tiêu đó. Nói cách khác, phải xác định và đi từ gốc của vấn đề để
rồi tiếp tục đi đến các vấn đề phát sinh. Hiện nay, trong lĩnh vực khoa học xã
hội nhân văn đã tích tụ quá nhiều vấn đề
bất cập. Vấn đề không phải là ở chỗ chưa có sự thống nhất ý kiến mà là ở
chỗ để sự không thống nhất này kéo dài,
dẫn đến sự phân liệt về tư tưởng quan điểm, phân liệt trong hành động để khi phát triển đến mức cao thì thành phân
liệt về tổ chức.Minh chứng là những ý kiến khác nhau về dự thảo Hiến pháp 2013
thể hiện rõ thực trạng này.
Với thành tố (iv)
và (v), tôi vẫn băn băn khoăn ở khía
cạnh cần làm rõ chủ trương, chính sách sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học. Đó là
chưa kể đến việc chảy máu chất xám do chính sách đãi ngộ, do chính sách tuyển
dụng (gắn với tệ nạn mua quan, bán chức). Ngoài ra, còn phải tính đến nhiệm vụ phòng ngừa tệ nạn
“Khoa học phiệt” có thể đã chớm xuất hiện ở Việt Nam , có thể liên quan đến vấn
đề bè phái được hình thành dưới tác động của nhóm lợi ích.
IV. KẾT LUẬN
Mầy mò trên con
đường phát triển kinh tế thị trường, khi đất nước đổi mới cơ chế quản lý, nhưng
sự thiếu lý luận về hình thái và mô hình kinh tế mới, cộng với tư duy sản xuất thời bao cấp
còn rơi rớt nặng, và sức ì của ý thức hệ tư tưởng, đã dẫn đến những sai lầm
nghiêm trọng trên lĩnh vực này. Kinh tế và thể chế là cặp song sinh, là
lĩnh vực yếu nhất của Việt Nam. Cùng xuất phát điểm gần tương
tự như Việt Nam
nhưng Hàn Quốc đã hoàn thành công nghiệp hóa từ năm 1990. Thái Lan là nước phát
triển trung bình nhưng Việt Nam
còn phải phấn đấu khoảng 30 năm nữa mới đạt được như Thái Lan ngày nay. Các giải pháp để chấn hưng
đất nước, trong đó có vai trò của kinh tế tri thức đã được nhiều chuyên gia,
nhà khoa học phân tích đề xuất, “quả bóng” đang nằm trong chân những người có
trách nhiệm điều hành quản lý đất nước.
Ở Việt Nam, sai sót
rất nghiêm trọng, yếu kém, thậm chí lạc hậu về lĩnh khoa học xã hội nhân văn
dẫn đến các tiêu cực trong xã hội, không tiếp thu được một cách có chọn lọc các
thành tựu nghiên cứu khoa học. Ngay tại các nước phương tây, đã có nhận định là
nhiều phát minh sáng kiến đã bị các nhà đầu tư mua rồi cất ngăn kéo vì nếu khai
thác, ứng dụng thì sẽ phải điều chỉnh, thậm chí hủy bỏ các công nghệ hiện đang
đem lại cho họ lợi nhuận lớn. Đây cũng là vấn đề mà ta đang gánh chịu một cách
âm thầm mà ít người lên tiếng.
Kinh tế tri thức có
hai mặt như đồng xu. Trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam, chỉ riêng về lĩnh vực
nông nghiệp, một số tổ chức/người có thể
sử dụng Học thuyết kinh tế tri thức mới để đặt ra vấn đề bản quyền và làm hại
nông dân (ví dụ các loại giống cây trồng biến đổi gen), sử dụng kiến thức bản
địa của nông dân mà không trả tiền. Khi các doanh nghiệp tạo ra tri thức thì họ
tính tiền rất đắt nhưng tri thức của nông dân thì luôn bị lạm dụng mà không có
ai bảo vệ. Nếu Chính phủ vì dân thì họ sẽ có những biện pháp bảo vệ nông dân
như tạo ra hành lang pháp lý để bảo vệ nông dân, đẩy mạnh chi tiêu công cho
công tác nghiên cứu phục vụ nông dân, phát triển các nhãn hiệu chỉ dẫn địa lý,
nhãn hiệu cộng đồng, v.v. Ngoài ra, Chính phủ cũng cần phải giúp đỡ và phát
triển các tổ chức của nông dân để họ tự bảo vệ họ.
T.V.T
__________________
Tài liệu tham
khảo
Trích dẫn một số
ý kiến thảo luận với các nhà khoa học như Trần Đức Nguyên, Vũ Quang Việt,
Nguyễn Lang.
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét