THỬ TÌM HIỂU VỀ CHIẾC BÁNH CHƯNG VUÔNG
NỘI DUNG :
1. Về Bánh Chưng và Gốc Tích Chiếc Bánh Chưng
2. Bánh Chưng Chỉ Có ở Việt Nam?
3. Sự Khác Nhau và Giống Nhau Giữa Bánh Chưng Việt Nam với Bánh Chưng Triệu Khánh
4. Thử Lí Giải Hiện Tượng Có Tập Tục Ăn Bánh Chưng Tết Giống Hệt Nhau giữa VN với Triệu Khánh Dựa Theo Quan Điểm của “Nhân Học Văn Hóa và Mối Quan Hệ Trung Tâm – Ngoại Vi”.
5. Về Các Tên Gọi “Bánh Chưng”, “Lá Dong”.
6. Về Triết Lí Trời Tròn Đất Vuông Cho Bánh Chưng Bánh Dày?
2. Bánh Chưng Chỉ Có ở Việt Nam?
3. Sự Khác Nhau và Giống Nhau Giữa Bánh Chưng Việt Nam với Bánh Chưng Triệu Khánh
4. Thử Lí Giải Hiện Tượng Có Tập Tục Ăn Bánh Chưng Tết Giống Hệt Nhau giữa VN với Triệu Khánh Dựa Theo Quan Điểm của “Nhân Học Văn Hóa và Mối Quan Hệ Trung Tâm – Ngoại Vi”.
5. Về Các Tên Gọi “Bánh Chưng”, “Lá Dong”.
6. Về Triết Lí Trời Tròn Đất Vuông Cho Bánh Chưng Bánh Dày?
______________________________-
1. Về Bánh Chưng và Gốc Tích Chiếc Bánh Chưng
Chiếc bánh chưng vuông ta vẫn gói, vẫn ăn trong mỗi dịp Tết đến, thân thuộc là thế, tưởng chừng như chẳng còn gì để bàn để nói. Ấy vậy mà khi đi sâu tìm hiểu về gốc tích của nó, vẫn phát hiện ra nhiều điều thú vị, nhiều điều phải ngẫm phải suy.
Bánh chưng lâu nay vẫn được coi là một loại bánh truyền thống của dân tộc Việt, ban đầu được làm ra nhằm thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với cha ông và đất trời. Bánh chưng thường được làm vào dịp Tết cổ truyền của dân tộc Việt và vào ngày giổ tổ Hùng Vương (mùng 10 tháng 3Âm lịch hàng năm).
1. Về Bánh Chưng và Gốc Tích Chiếc Bánh Chưng
Chiếc bánh chưng vuông ta vẫn gói, vẫn ăn trong mỗi dịp Tết đến, thân thuộc là thế, tưởng chừng như chẳng còn gì để bàn để nói. Ấy vậy mà khi đi sâu tìm hiểu về gốc tích của nó, vẫn phát hiện ra nhiều điều thú vị, nhiều điều phải ngẫm phải suy.
Bánh chưng lâu nay vẫn được coi là một loại bánh truyền thống của dân tộc Việt, ban đầu được làm ra nhằm thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với cha ông và đất trời. Bánh chưng thường được làm vào dịp Tết cổ truyền của dân tộc Việt và vào ngày giổ tổ Hùng Vương (mùng 10 tháng 3Âm lịch hàng năm).
Theo quan điểm của nhiều người, bánh chưng là loại bánh duy nhất có lịch
sử lâu đời trong ẩm thực truyền thống Việt Nam còn được nhắc lại trong
truyền thuyết, đồng thời có vị trí đặc biệt trong tâm thức của cộng
đồng người Việt. Gốc tích chiếc bánh chưng luôn được gắn liền với Sự
tích bánh chưng bánh dày trong truyền thuyết, có liên quan đến hoàng tử
Lang Liêu vào đời Vua Hùng thứ 6, sự tích muốn nhắc nhở con cháu về
truyền thống của dân tộc. Và rồi xưa nay, sự tích-truyền thuyết ấy luôn
là lời giải thích cho ý nghĩa cũng như nguồn cội của chiếc bánh chưng
bánh dày, đồng thời cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của cây lúa và thiên
nhiên trong nền văn minh lúa nước.
Truyện bánh chưng
Sau khi vua Hùng Vương phá được giặc Ân, nhân quốc gia vô sự, muốn
truyền ngôi cho con, bèn triệu hai mươi hai vị quan lang và công chúa
lại mà phán rằng: "Ta muốn truyền ngôi cho kẻ nào làm ta vừa ý, cuối năm
nay mang trân cam mỹ vị đến để tiến cúng tiên vương cho ta được tròn
đạo hiếu thì sẽ được ta truyền ngôi". Các con đều đua nhau đi tìm của
ngon vật lạ khắp trên cạn dưới bể, nhiều không sao kể xiết. Duá có vị
công tử thứ 18 là Lang Liêu, bà mẹ trước kia vốn bị vua ghẻ lạnh, vì cô
đơn mà chết, tả hữu ít người giúp đỡ, khó xoay xở nên đêm ngày lo lắng,
mộng mị bất an. Một đêm kia, mộng thấy có thần nhân tới nói rằng: "Các
vật trên trời đất và mọi của quý của người không gì bằng gạo. Gạo có thể
nuôi người khỏe mạnh mà ăn không bao giờ chán, các vật khác không thể
hơn được. Nay đem gạo nếp làm bánh, cái hình vuông, cái hình tròn để
tượng trưng hình trời đất rồi dùng lá bọc ngoài, ở trong cho mỹ vị để
ngụ ý công đức sinh thành lớn lao của cha mẹ". Lang Liêu tỉnh dậy, mừng
rỡ mà nói rằng: "Thần nhân giúp ta vậy!". Nói rồi bèn theo lời dặn trong
mộng mà làm, chọn thứ gạo nếp trắng tinh, lặt lấy những hạt tròn mẩy
không bị vỡ, vo cho thật sạch, lấy lá xanh bọc xung quanh thành hình
vuông, cho trân cam mỹ vị vào bên trong để tượng trưng cho trời đất, vạn
vật rồi nấu chín, gọi là bánh chưng. Lại lấy gạo nếp nấu chín, giã cho
nát, nặn thành hình tròn, tượng trưng cho trời gọi là bánh dày. Đến kỳ,
vua vui vẻ truyền các con bày vật tiến lên. Xem qua khắp lượt, thấy
không thiếu thức gì. Duá có Lang Liêu chỉ tiến dâng bánh chưng và bánh
dày. Vua kinh ngạc mà hỏi, Lang Liêu đem giấc mộng thuật lại. Vua đem
nếm, thấy ngon miệng không chán, hơn hẳn các thức của các con khác, tấm
tắc khen hồi lâu rồi cho Lang Liêu được nhất. Đến ngày Tết, vua thường
lấy bánh này dâng cúng cha mẹ. Thiên hạ bắt chước, đến nay đổi tên Lang
Liêu thành Tiết Liệu. Vua bèn truyền ngôi cho Liêu, anh em 21 người đều
được chia giữ các nơi phiên trấn, tụ tập bộ đảng mà thành phiên quốc. Về
sau, các tướng tranh giành nhau thường dựng mộc sách (hàng rào bằng gỗ)
để phòng ngự; cho nên, từ đó mới có sách, thôn, trang, phường.
Nguyên văn:
夜梦神人告曰:「天地之物所
贵於人,无过米。所以养人,人能壮也。食不能厌,他物莫能先。当以糯米作饼,或方或圆,以象天地之形,叶包其外,中藏美味,以寓父母生育之重(一作
状)。」郎僚惊觉,喜曰:「神人助我也。」遵而行之。乃以糯米择其精白,选用圆完无缺折者,淅之洁静,以青色叶包裹为方形,置珍甘美味在其中,以象天地包
藏万物焉。煮而熟之,故曰蒸饼。又以糯米炊熟,捣而烂之,捏作圆形以象天,故曰薄持饼。
至期,王命诸子具陈所献,历而观之,无物不有。惟郎僚独献蒸饼、薄持饼。王惊异,问之,郎僚具以梦对。王亲尝之,适口不厌,胜於诸子所陈之物,叹美良久。乃以郎僚为第一,岁时节候,常以是饼奉事父母,天下效之至今。以名郎僚,故呼谓节料。
初,王传位於郎僚,兄弟二十一人,分守藩篱,立为部党,以为藩国。迨後众将争长,各立木栅以遮护之,故曰栅、曰村、曰庄、曰坊,自此始。
2. Bánh Chưng Chỉ Có ở Việt Nam ?
Bấy nay, chắc rằng trong tiềm thức người Việt, bánh chưng cùng với tục
ăn bánh chưng ngày Tết là chỉ riêng có ở Việt Nam, chắc rằng cũng chẳng
có ai nghi ngờ cái “độc quyền” này.
Bởi cả đời luôn mang trong mình suy nghĩ ấy, nên khi biết được sự thực không phải vậy, chúng tôi đã vô cùng bất ngờ.
Nhờ việc quyết tâm tìm cho được nguồn gốc của từ “bánh chưng”, mà mối
lương duyên nào đó đã dẫn chúng tôi đến với chiếc bánh chưng Triệu
Khánh, ở Quảng Đông Trung Quốc, với vùng đất cùng tên cùng có tục ăn
bánh chưng ngày Tết y hệt người Việt mình.
Hãy nghe người Trung Quốc nói về chiếc bánh chưng này:
Bánh chưng (tiếng Hán 裹蒸, âm Hán-Việt “quả chưng”, thường gọi là裹蒸粽),
được coi là “Trà điểm vương” (vua món điểm tâm), là đặc sản chính hiệu
của thành phố Triệu Khánh, tỉnh Quảng Đông, một loại bánh nhà nhà đều
biết ở khu vực Lĩnh Nam.
Triệu Khánh ở phía tây Quảng Đông, tự hào với cố đô Lĩnh Nam. Bánh chưng là đặc sản chính hiệu của Triệu Khánh.
Bánh chưng Triệu Khánh truyền thống có hình gối hoặc hình kim tự tháp Ai
Cập, dùng gạo nếp, đỗ xanh, thịt mỡ (thịt sấn hoặt thịt dọi), cho thêm
một ít muối tinh, dầu lạc, ngũ vị hương, rượu, vừng trắng…làm thành. .
Phải dùng loại lá dong (冬叶dòngyè) chỉ có ở hai bờ sông Tây Giang để gói
bánh chưng, thì mới có mùi thơm đặc biệt và có tác dụng chống mốc rất
tốt. Bánh được buộc bằng 水草(cói?) riêng có ở vùng này. Bánh chưng Triệu
Khánh hương vị thơm ngon, ăn ngon mềm, béo mà không ngấy, thơm ngọt vừa
miệng, hương vị độc đáo. Là món ăn truyền thống được dân bản địa ưa
thích vào ngày Tết. Trong dân gian Triệu Khánh, xưa nay bánh chưng
luôn là món ăn của ngày Tết.
Ngày nay, khắp đường phố ngõ ngách Triệu Khánh, đâu cũng bắt gặp bánh
chưng Triệu Khánh, sánh danh với nghiên mực Đoan Khê. Cho đến hiện giờ,
Triệu Khánh vẫn làm bánh chưng bằng tay.
Nguyên liệu chủ yếu của bánh chưng Triệu Khánh là gạo nếp, đỗ xanh,
thịt mỡ (sấn hoặt dọi), theo tỉ lệ 10:6:4, chiếc bánh đã gói xong chưa
luộc có trọng lượng khoảng 0,5kg. Bánh bán thành phẩm phải cho vào nồi
lớn luộc lửa to trong 8 tiếng, vừa luộc vừa đổ thêm nước vào, cho đến
khi gạo nếp, đỗ xanh, thịt chín quyện vào với nhau là được, gọi là “bánh
chưng thịt khổ”
Hiện nay trên thị trường cá biệt có những cửa hàng bán bánh hưng Triệu
Khánh vào ngày Tết, ngoài dùng gạo nếp, đỗ xanh, thịt mỡ ra, còn cho
thêm cả nấm đông cô, trứng gà, lạp xường…. Loại bánh này được coi là vua
bánh chưng đặc chủng Triệu Khánh. Nhân bánh chưng hiện giờ gồm có ngũ
vị hương, lòng đỏ trứng muối, thịt gà quay, thịt vịt quay, xá xíu...
Lá dong là nguyên liệu riêng để làm bánh chưng Triệu Khánh, thuộc loại
thực vật sống trong bóng râm, tính lạnh, giàu diệp lục tố chlorophyll,
sống ở nơi sơn cốc, khe suối, hiện chỉ có ở hai bờ sông Tây Giang, nghe
nói hái vào mùa đông là tốt nhất, có các đặc điểm là màu xanh, lá
thơm, mềm mại, chống mốc.
Lá dong được chia làm 2 loại là lá dong thật và lá dong dại. Lá dong
thật mặt lá xanh, luộc bánh xong vẫn giữ được màu xanh; lá dong dại
phiến lá nhỏ hơn lá dong thật một chút, vị hơi đắng chát.
Theo sách “Quảng phủ tân ngữ” có ghi: “Có loại lá dong, to như lá chuối
tiêu, lá ướt dùng để gói bánh chưng … Vùng Miền Nam nóng, rất dễ bị mốc,
chỉ có lá dong là có thể giữ lâu được”.
Đặc điểm độc đáo của bánh chưng Triệu Khánh chính là dùng lá dong to gói bánh, lá dong không những thơm, mà còn có thể giữ tươi. Lá dong tính hàn, có tác dụng thanh nhiệt giải độc, giáng hỏa.
Bấy lâu nay, 裹蒸 là món ăn truyền thống vào ngày Tết của khu vực Triệu
Khánh. Khi Tết sắp đến, phụ nữ ở Triệu Khánh bắt đầu bận rộn hẳn lên.
Ngay từ sáng sớm, họ đã ra chợ để chọn lá dong. Lá dong là đặc sản của
vùng này, nghe nói mọc ở sâu trong Đỉnh Hồ Sơn,thừa hưởng tinh hoa của
trời đất, hấp thụ sương mưa của thiên nhiên, vì thế mà có đặc điểm to
nõn nà, xanh mướt, mềm mại, chống mốc…
Còn trong thực tế, rất nhiều người trong thôn thường biết tìm cho mình
nơi để trồng một ít cây lá dong, lá dong là loài thực vật rất dễ sống,
sau nhà bên nhà, đầu ruộng đều có thể trồng được, chẳng phản bận tâm.
Đợi đến cuối năm lúc cần phải gói bánh chưng là có thể cắt về, tự cung
tự túc
Lá dong gói bánh chưng tốt nhất là chọn dùng lá già, lá dong trước khi
dung phải dung nướ nóng dội qua một lượt, để lá trở nên dai mềm hơn dễ
gói, lại khử được vị đắng chát của lá. Gạo nếp, đỗ xanh đều phải là loại
trong năm thì mới tốt. Gạo nếp vo sạch ngâm, đỗ xanh bỏ vỏ xay vỡ, sang
bỏ đỗ lép. Thịt lợn làm nhân khá cầu kì, chọn loại thịt ba chỉ thượng
thặng nửa nạc nửa mỡ; trộn thành “ngũ hương” là một bước then chốt, ảnh
hưởng trực tiếp đến hương vị bánh. Bánh chưng là món ăn dân gian truyền
thống, nhà nào cũng có bí quyết pha trộn riêng, khác với loại có ngũ vị
hương mua ngoài chợ.
Dụng cụ nấu bánh chưng truyền thống là cái cóng lớn hoặc thùng sắt,
người dân thường dùng thùng phuy đựng dầu, trước khi đun bôi một lớp sơn
bùn ra bên ngoài, để thùng khỏi bị đen.
Nghe nói, truyền thống này đã có gần 2000 năm, thể hiện được những đặc điểm nguyên vị nguyên hương của bánh chưng.
Cách ăn bánh chưng Triệu Khánh cũng có vẻ độc đáo riêng, người bản địa
thường sau khi nhấc chiếc bánh chưng nóng hổi hổi ra khỏi nồi xong, bóc
lớp lá dong, cho thêm cần tây, hành xắt nhuyễn và vừng, rồi xức thêm một
ít dầu lạc và nước tương, khi nào ăn thì chấm, rất ngon; còn một cách
ăn khác là bóc lá xong, nhúng bánh chưng vào nước trứng đánh rồi rán lên
cho vàng, vỏ giòn.
Người ta thích ăn nhất vẫn là “bánh chưng ra lò” vừa vớt khỏi nồi, không
cho thêm bất cứ gia vị gì, ăn trực tiếp luôn. Bánh chưng mới vớt khỏi
nồi, lá dong qua nấu chín đã biến thành màu xanh sẫm lớp mặt gạo nếp hấp
thụ chất diệp lục từ lá dong, tạo thành một màu xanh nhạt trong suốt,
mùi thơm quyện giữa lá dong với gạo nếp, đỗ xanh khiến cho người ta thèm
ăn dỏ rãi, vị thơm ngọt ngon miệng của nó ăn xong vẫn còn lưu lại nơi
miệng. Nghe nói rất có tác dụng bổ trung ích khí, trị đái đêm và làm
tăng calo. Vào tiết trời mùa Xuân se lạnh, bánh chưng trở thành món ăn
truyền thống vào mỗi độ người người đón Tết quả thực có hiệu quả riêng
của nó.
Người Hồi sống ở Triệu Khánh cũng có tập quán gói bánh chưng, họ lại
dùng thịt bò làm nhân, gọi là “Bánh chưng Halal”; tín đồ Phật giáo thì
làm nhân bằng lạc, bạch quả, đông cô, gọi là “bánh chưng chay”
Ngoài bánh chưng làm bằng gạo nếp, đỗ xanh, nhân thịt lợn ra, thời nay
còn phát triển các loại mới như bằng gạo nếp cẩm… giàu chất dinh dưỡng
hơn, còn nhân thì hết sức đa dạng, người ta cho vào nào là đông cô, bạch
quả, hạt dẻ, lạp xường, vịt quay, lòng đỏ trứng, thịt xông khói…; còn
có loại bánh chưng hạng sang cho trứng muối Hồ Bắc, sò điệp Nhật bản, cá
chình khô, nhân lạc…gói bằng lá sen, luộc trong 4 tiếng… Song phần đông
mọi người vẫn làm bánh chưng bằng gạo nếp, đỗ xanh, thịt lợn có vị
nguyên gốc.
Có những thực khách cho là bánh chưng Triệu Khánh quá to, nhân chẳng có
gì thay đổi suốt bao nhiêu năm qua, hơi ngấy. Bánh chưng truyền thống to
là vì ngay từ buổi đầu sáng tạo ra, nó đã được làm để đáp ứng công việc
lao động trên núi của người nông dân, bởi bánh chưng một khi đã được
luộc chin là có thể để được tới vài ngày mà không bị hỏng, so với cơm
canh thông thường, người nông dân có lên núi lao động tới vài ngày cũng
không lo bị đói. Hơn nữa, vào những năm 60-80 thế kỉ trước, người dân
Triệu Khánh còn tương đối nghèo, một chiếc bánh chưng thường đủ cho khẩu
phần ăn 1 ngày cho cả nhà. Vì thế, bánh chưng to vẫn được phần đông
người lao động đón nhận
Lịch sử và truyền thuyết
Bánh chưng còn từng được làm cống phẩm, “Nam Tề thư” (《南齊書》) có ghi:
Trong ngự thiện của hoàng đế, có món ngon裹蒸. Hoàng đế rất thích: “Tôi
ăn món này không hết, nên chia ra làm bốn phần, để lại làm bữa tối”
“Nam Tề thư”, ghi lại Nam Tề Tiêu Tề vương triều, từ năm nguyên niên
Kiến nguyên Tề Cao Đế (năm 479) đến năm thứ 2 Trung hưng Tề Hòa Đế (năm
502), tổng cộng các chuyện sử trong 23 năm.
Bánh chưng là lễ vật cần phải có để đi chúc Tết người thân vào dịp Tết
nguyên đán, Tết Đoan ngọ, tượng trưng cho sự sung túc và may mắn trong
năm tới. Nhà thơ đời Thanh Vương Sĩ Trinh có thơ ca ngợi cảnh rầm rộ nấu
bánh chưng đêm Giao thừa (trừ tịch) ở thành hương Triệu Khánh:
除夕濃煙籠紫陌,家家塵甑裹蒸香 Trừ tịch nồng yên lung tử mạch, Gia gia trần tắng quả
chưng hương (Giao thừa lửa đượm khói tím bay, Nhà nhà đen nồi bánh chưng
thơm).
Truyền thống làm bánh chưng ở Triệu Khánh đã có từ đời Tần. Có 2 lưu
truyền về khởi nguồn của nó. Một là vào thời Lĩnh Nam, quân Tần chinh
phạt thống trị, lúc nào cũng đem theo mình nắm cơm gói lá đã nấu chín ở
nơi đồn trú. Hai là nông dân thời ấy khi đi làm đồng đem theo mình nắm
cơm gói lá đã nấu chín để ăn bất cứ lúc nào.
“Trong chiếc bánh chưng Triệu Khánh có ẩn chứa một câu chuyện truyền
thuyết tình yêu đầy lãng mạn cảm động – Tương truyền vào thời xưa, ở
Đoan Châu có một đôi trai gái, cô gái tên là A Thanh, chàng trai tên là A
Quả, đem lòng yêu nhau tha thiết. Nhưng cha mẹ A Thanh cho rằng A Quả
chỉ là một chàng thư sinh, chẳng có tiền bạc và thanh thế gì, nên không
cho phép con gái mình được yêu chàng trai. Bởi thế, A Quả đã lập chí
vươn lên. Kì thi năm ấy lại tới, chàng sửa soạn hành lí tới kinh thành.
Sớm ấy, A Thanh tới đưa tặng một nắm cơm nếp đỗ xanh gói bằng lá dong,
dặn chàng đi giữ cẩn thận khi đi đường, đừng quên tình cảm đôi bên. A
Quả đỗ cao Trạng nguyên, nhà vua muốn vời làm phò mã, A Quả không thuận.
Nhà vua nổi giận bắt giam. A Quả ngày ngày cầm nắm cơm khóc, công chúa
lấy làm lạ, A Quả nói: Cám bã còn không vứt nữa là nắm cơm? Công chúa
vô cùng cảm động, bèn tha cho A Quả về quê. A Quả và A Thanh cuối cùng
đều biến thành tiên. Người đời sau phát hiện thấy dùng lá dong gói cơm
nắm làm bằng các nguyên liệu gạo nếp, đỗ xanh, thịt lợn… rất thơm ngon,
bèn đua nhau bắt chước, cho đến sau nàyrồi trở thành thứ nhà nhà đều làm
sẵn mỗi khi ăn Tết ở Đoan Châu. Quả chưng 裹蒸 có nghĩa là “Quả Thanh”
vậy.”
Triệu Khánh là nơi nào vậy? Đó chính là thành phố Triệu Khánh trên đất Trung Quốc.
Thành phố Triệu Khánh hiện là thành phố thuộc tỉnh Quảng Đông, nằm ở
chính tây tỉnh Quảng Đông, và cũng là phía tây châu thổ Châu Giang. tây
giáp Ngô Châu và Hạ Châu Quảng Tây, nam giáp Vân Phù, Dương Giang, Giang
Môn, đông giáp Phật Sơn, tựa lưng vào Thanh Viễn, là trục giao thông
trọng yếu thông tới các tỉnh Tây Nam là khu vực phát triển ven biển.
Diện tích 15 nghìn km2. Dòng chính Châu Giang chảy xuyên qua Tây Giang.
Bắc gối vào Bắc Lĩnh, đối mặt với Tây Giang, án ngữ phía trên Thương
Ngô, dưới chặn Nam Hải (Biển Đông), là cửa ngõ Việt Tây, nổi tiếng là
“Nghiên đô Trung Quốc” (làm nghiên mực nổi tiếng). Triệu Khánh là danh
thành văn hóa lịch sử quốc gia của Trung Quốc, với nền văn hóa sâu đậm
hương vị Lĩnh Nam, chính là cái nôi và là nơi hưng thịnh của văn hóa
Lĩnh Nam, văn hóa Quảng Phủ. Đồng thời, Triệu Khánh còn là thành phố du
lịch, thành phố hoa viên nổi tiếng của Trung Quốc, chính quyền thành
phố đặt ở khu Đoan Châu.
Bản đồ Triệu Khánh
3. Sự Khác Nhau và Giống Nhau Giữa Bánh Chưng Việt Nam với Bánh Chưng Triệu Khánh
Đọc xong những dòng trên, có lẽ chúng ta đều cảm thấy giật mình trước sự
giống nhau đến kì lạ về tập tục nấu bánh chưng (theo lối cổ truyền) của
hai nơi. Cảnh tượng tấp nập lo cho nồi bánh chưng ngày Tết sao mà giống
nhau đến thế: từ khâu chuẩn bị lựa chọn kĩ lưỡng các loại nguyên liệu
chính như lá dong, gạo, thịt…(lá dong, gạo nếp, đỗ xanh thịt lợn phải
như thế nào là chuẩn là ngon), cho đến khâu rửa lá, đãi gạo, đãi đỗ,
thái miếng thịt làm nhân, đến cả dụng cụ luộc bánh… Công thức gói bánh
thì đúng là giống nhau một chín một mười, chỉ khác nhau một chi tiết cơ
bản nhất: Bánh chưng Việt Nam có hình vuông, còn bánh chưng Triệu Khánh
có hình 3 góc 4 mặt. Họ bảo rằng, gói bánh chưng hình như vậy sẽ tận
dụng được lợi thế của góc lá, buộc bánh được chặt hơn.
Bánh Chưng Triệu Khánh (地道的肇庆美食(裹蒸粽)
Mời Xem Video 1. Cách gói bánh chưng của Việt Nam:
Gói bánh chưng không dùng khuôn - http://www.youtube.com/watch?v=FSxCYRTP69k
Lưu ý, 裹蒸 được coi là 1 loại 粽子[zòng zi]
Bánh chưng Việt Nam được lưu truyền dưới dạng truyền thuyết, được chép trong “Lĩnh nam chích quái”.
Theo Truyện bánh chưng trong “Lĩnh nam chích quái”, bánh chưng Việt Nam
có từ đời Vua Hùng thứ 6, cách nay khoảng 4000 năm (?) thì là có trước
bánh chưng Triệu Khánh (?)
Bánh chưng Triệu Khánh được lưu truyền cả trong sách (“Nam Tề thư” (《南齊書》), trong thơ cổ, lẫn cả truyền thuyết.
Bánh chưng Triệu Khánh được dùng làm cống phẩm dâng vua làm ngự thiện.
Bánh chưng Việt Nam được nâng lên tầm “thiêng hóa” (từ của Trần Quốc
Vượng): Cùng với bánh dày được dùng trong lễ Giỗ Tổ Vua Hùng.
Cứ đến ngày Giỗ Tổ 8/3 âm lịch), lễ rước kiệu và dâng lễ vật về Đền
Hùng, tưởng nhớ công ơn Tiên tổ, lại được diễn ra long trọng tại Khu di
tích lịch sử Đền Hùng - Phú Thọ.
Bánh chưng, bánh dày là lễ vật quan trọng nhất để dâng các Vua Hùng.
Dâng bánh chưng bánh dày lên các Vua Hùng
4. Thử Lí Giải Hiện Tượng Có Tập Tục Ăn Bánh Chưng Tết Giống Hệt
Nhau giữa VN với Triệu Khánh Dựa Theo Quan Điểm của “Nhân Học Văn Hóa và
Mối Quan Hệ Trung Tâm – Ngoại Vi”:
4.1. Triệu Khánh là vùng đất nào?
Theo những gì đã được giới thiệu trong những tư liệu có liên quan của Trung Quốc:
Triệu Khánh tự hào vì từng là cố đô Lĩnh Nam. Ở Trung Quốc, nói “Cố đô
Lĩnh Nam” là chỉ “thành phố Triệu Khánh tỉnh Quảng Đông” ngày nay.
Triệu Khánh nổi danh là “Cố đô Lĩnh Nam”, được coi là cái nôi của văn
hóa Lĩnh Nam. Ở huyện Khai Phong của Triệu Khánh từng phát hiện được một
hóa thạch răng người cách nay 14,8 vạn năm, được giới khảo cổ cho là tổ
tiên sớm nhất của người Lĩnh Nam. Các nhà khoa học cho biết, Triệu
Khánh vừa là nơi khởi nguồn của Việt ngữ (粤语), lại vừa là vùng cốt lõi
của diễn tiến giao thoa giữa văn hóa dân tộc bản địa Lĩnh Nam với văn
hóa Trung Nguyên, đồng thời còn là cửa ngõ để văn hóa Phương Tây đi vào
nội địa Trung Quốc từ Áo Môn.
Lĩnh Nam theo nghĩa rộng chỉ vùng nằm ở phía nam Ngũ Lĩnh, nam Trung
Quốc, và vùng Bắc Việt Nam, tương đương với Quảng Đông, Quảng Tây và
toàn bộ Hải Nam, cùng một phần khu vực thuộc các tỉnh Hồ Nam và Giang
Tây…, cùng vùng nằm về phía bắc Đồng bằng Sông Hồng Việt Nam. Còn theo
nghĩa hẹp là chỉ chỉ mỗi vùng phần phía nam núi Ngũ Lĩnh ở Nam Trung
Quốc, do từ sau đời Tống mới bắt đầu chia thành Quảng Nam Đông Lộ và
Quảng Nam Tây lộ, nên Việt Nam mới tách ra, kể từ đó không còn bao gồm
vùng Miền Bắc Việt Nam nữa.
Lĩnh Nam còn gọi là Lĩnh Ngoại, Lĩnh Biểu. “Biểu” cũng có nghĩa là
“ngoại”. Đây là xét Lĩnh Nam từ vị trí địa lí nằm ở vùng Trung Nguyên.
Trong lịch sử, Đường triều Lĩnh Nam đạo còn bao gồm cả vùng Đồng bằng
Sông Hồng Việt Nam thuộc sự cai trị của Hoàng triều Trung Quốc. Sau đời
Tống, Bắc Bộ Việt Nam mới tách ra. Khái niệm Lĩnh Nam dần loại Việt Nam
ra ngoài. Lĩnh Nam là một vùng môi trường riêng biệt của Trung Quốc,
những khu vực này không chỉ gần gũi nhau về môi trường địa lí, mà thói
quen sinh hoạt của người dân cũng có rất nhiều điểm tương đồng.
Do những biến động về phân chia hành chính qua các đời mà hiện nay nhắc
đến từ Lĩnh Nam là thường chỉ riêng vùng 3 tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và
Hải Nam, các huyện thị nằm ở phía nam Ngũ Lĩnh thuộc một phần Giang Tây
và Hồ Nam không nằm trong đó.
Lĩnh Nam cổ là đất của Bách Việt, là nơi Bách Việt tộc cư trú.
Còn theo Việt Nam:
Lĩnh Nam là vùng đất phía nam núi Ngũ Lĩnh trong truyền thuyết xưa ở
Việt Nam và Trung Quốc. Truyền thuyết về vùng đất này có thể liên quan
đến giai đoạn Hồng Bàng trong lịch sử Việt Nam.
Kể từ đấy thiên hạ chia đôi. Bắc do vua Đế Nghi cai trị. Nam do Lộc Tục
lên ngôi, hiệu là Kinh Dương Vương. Đất Lĩnh Nam phía bắc tới Động Đình
hồ, phía nam giáp với nước Hồ Tôn, phía tây giáp với Ba Thục, đông giáp
biển Nam Hải. Kinh Dương Vương kết hôn với con gái của Động Đình Quân là
Long Nữ đẻ ra Sùng Lãm. Thái tử Sùng Lãm kế tục ngôi vua lấy hiệu là
Lạc Long Quân. Lạc Long Quân kết hôn với Công chúa Âu Cơ con vua Đế Lai,
sinh được trăm con. Lạc Long Quân truyền ngôi cho con trưởng làm vua,
hiệu là Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang. Lại phong 99 con mỗi người
làm chủ một ấp, vì vậy đất Lĩnh Nam mới có trăm họ. Đó là nguồn gốc
Bách Việt.
Tuy nhiên, trong sách "Nghìn xưa văn hiến", các tác giả Trần Quốc Vượng,
Nguyễn Từ Chi, Nguyễn Cao Lũy lại không gộp phần lãnh thổ của người Âu
Việt và người Lạc Việt vào Lĩnh Nam, bằng chứng là có những chỗ chú
thích Lĩnh Nam khớp với các tỉnh Quý Châu, Quảng Đông và Quảng Tây ở
miền Nam Trung Quốc ngày nay.
Nếu đối chiếu với lịch sử Lĩnh Nam mà người Trung Quốc đã nói, thì địa
phận Lĩnh Nam theo quan niệm của các tác giả sách "Nghìn xưa văn hiến"
là “Lĩnh Nam theo nghĩa hẹp, chỉ chỉ mỗi vùng phần phía nam núi Ngũ Lĩnh
ở Nam Trung Quốc, do từ sau đời Tống mới bắt đầu chia thành Quảng Nam
Đông Lộ và Quảng Nam Tây lộ, nên Việt Nam mới tách ra, kể từ đó không
còn bao gồm vùng Miền Bắc Việt Nam nữa”.
Nếu không gộp phần lãnh thổ của người Âu Việt và người Lạc Việt vào Lĩnh
Nam, thì lại mâu thuẫn với nhận định: Truyền thuyết về vùng đất này có
thể liên quan đến giai đoạn Hồng Bàng trong lịch sử Việt Nam. Hồng Bàng
(Hán tự: 鴻龐 hoặc 鴻厖) là giai đoạn lịch sử thời đại thượng cổ của lịch sử
Việt Nam. Nó dựa nhiều trên các truyền thuyết truyện kể và một số ít
bằng chứng khảo cổ học và ghi chép lịch sử.
Thời kỳ Hồng Bàng theo truyền thuyết và dã sử cho rằng bắt đầu từ năm
2879 TCN, là niên đại vua Kinh Dương Vương, với quốc hiệu Xích Quỷ. Lãnh
thổ của quốc gia dưới thời vua Kinh Dương rộng lớn, phía bắc tới sông
Dương Tử (cả vùng hồ Động Đình), phía nam tới nước Hồ Tôn (Chiêm Thành),
phía đông là Đông Hải (một phần của Thái Bình Dương), phía tây là Ba
Thục (Tứ Xuyên, Trung Hoa ngày nay). Về sau người Việt chỉ thấy có ở
miền Bắc Việt Nam ngày nay, có thể một phần do sự lấn áp của các tộc
người Hoa Hạ từ phương Bắc.
4.2. Văn Hóa Lĩnh Nam
Văn hóa Lĩnh Nam còn gọi là Văn minh Châu Giang, gọi theo nghĩa hẹp là
Văn minh Quảng Đông, theo nghĩa rộng là Văn hóa Nam Việt (南粵, tức Nam
Việt Quốc, một quốc gia ở vùng Lĩnh nam, khoảng năm 204 tCn- năm 112/111
tCn). Văn hóa Lĩnh Nam, chỉ văn hóa vùng độc đáo của một dải “vùng Lĩnh
Nam” gồm Quảng Đông, Quảng Tây và Hải Nam ở phía nam Ngũ Lĩnh. Văn hóa
Lĩnh Nam ngày nay chuyên chỉ Văn hóa Nam Việt 南粵, nhất là Quảng Đông có
những đặc điểm nổi bật; Văn hóa Lĩnh Nam theo nghĩa hẹp là chỉ riêng
Văn hóa Quảng Phủ, Văn hóa Triều Châu và Văn hóa Khách Gia (nhiều khi
gọi là văn hóa Lĩnh Đông,Triều Châu còn có tên gọi là thủ ấp Lĩnh Đông).
Văn hóa Lĩnh Nam theo nghĩa rộng còn bao gồm vả văn hóa vùng Quan thoại
Quảng Tây và văn hóa riêng của các dân tộc thiểu số bản địa. Các tài
liệu khai quật di chỉ tổ tiên người Lĩnh Nam đã chứng minh, văn hóa Lĩnh
Nam là văn hóa nguyên sinh. Dựa vào môi trường địa lí và điều kiện lịch
sử độc đáo, văn hóa Lĩnh nam có nguồn gốc là văn hóa nông nghiệp và văn
hóa biển, trong quá trình đã không ngừng tiếp thu và tích hợp với văn
hóa Trung Nguyên và văn hóa hải ngoại, dần dần hình thành nên những đặc
điểm độc đáo của riêng mình.
4.3. Hà Hữu Nga từng phân tích về Khái niệm cảnh quan văn hóa trong địa
văn hóa hoặc địa lý nhân văn như sau: Theo nhà địa lý học Otto Schluter
thì việc sử dụng khái niệm cảnh quan văn hóa được bắt đầu từ đầu thế kỷ
XX [James, P.E & Martin G 1981, 177]. Năm 1908, Schluter cho rằng
bằng cách định nghĩa khái niệm địa lý là một khoa học cảnh quan Landschaftskunde có
nghĩa là khoa học này không có chung chủ đề nghiên cứu với bất kỳ môn
khoa học nào khác [Elkins, T.H. 1989, 27]. Ông đã xác định hai loại cảnh
quan: i) Urlandschaft cảnh quan gốc, tồn tại trước khi con người làm thay đổi; và ii) Kulturlandschaft cảnh
quan văn hóa, do con người tạo ra. Nhiệm vụ chủ yếu của địa lý học là
vạch ra những biến đổi trong hai loại cảnh quan này. Carl Sauer là một
nhà địa lý nhân văn có lẽ có ảnh hưởng to lớn nhất đến việc thúc đẩy và
phát triển ý tưởng về cảnh quan văn hóa [James, P.E & Martin G 1981,
321-324]. Sauer kiên trì nhấn mạnh đến tác nhân văn hóa với tư cách là
một lực lượng tạo hình các đặc điểm hữu hình của bề mặt trái đất trong
các vùng có phân định ranh giới. Theo định nghĩa của ông thì môi trường
vật chất có một ý nghĩa trung tâm, với tư cách là trung gian của các văn
hóa nhân văn tác động. Định nghĩa kinh điển của ông về cảnh quan văn
hóa được thể hiện như sau: “Cảnh quan văn hóa được hình thành từ một
cảnh quan tự nhiên bởi một nhóm văn hóa. Văn hóa là tác nhân, vùng tự
nhiên là trung gian, cảnh quan văn hóa là kết quả” [Sauer C. 1925].)
Từ định nghĩa về “Cảnh quan văn hóa” của Sauer C., có thể coi Tập tục
nấu bánh chưng ngày Tết ở Việt Nam và Triệu Khánh là những “cảnh quan
văn hóa” thu nhỏ, được hiểu theo nghĩa hẹp. Như thế, các cảnh quan văn
hóa nấu bánh chưng ngày Tết này được hình thành từ một cảnh quan tự
nhiên bởi một nhóm văn hóa. Phải chăng có thể suy ra rằng 2 nơi có tập
tục nấu bánh chưng ngày Tết giống hệt nhau này là thuộc cùng một nhóm
văn hóa trong cùng một vùng văn hóa Lĩnh Nam xưa?
Vậy nhân tố gì đã làm cho chúng tách ra, một đằng (Việt Nam) chiếc bánh
chưng đã được nâng lên tầm “thiêng hóa” – làm lễ vật trong lễ Giỗ Tổ
Vua Hùng, được coi là quốc hồn quốc túy của dân tộc, tới mức nhiều người
đã nâng lên thành “triết lí bánh chưng bánh dày”; một đằng (Triệu
Khánh) tuy cũng từng được dùng làm cống phẩm, song vẫn giữ nguyên ở ý
nghĩa đời thường là chính?
Liệu có thể áp dụng thuyết trung tâm-ngoại vi vào để lí giải được không?
Nghĩa là 2 cảnh quan nấu bánh chưng này vốn là cùng một nhóm văn hóa
thuộc đất Lĩnh Nam theo truyền thuyết xưa ở Việt Nam và Trung Quốc, rồi
vì những lí do lịch sử nào đó mà đã bị tách ra đẩy về 2 tiểu nhóm văn
hóa khác nhau?
Từ đây, chúng ta có thể đặt ra những câu hỏi:
1) Nếu coi Lĩnh Nam bao gồm cả Âu Việt và Lạc Việt, tức Lĩnh Nam theo nghĩa rộng:
Triệu Khánh là cố đô Lĩnh Nam, Lĩnh Nam bao gồm cả Lạc Việt, Bắc Việt
Nam ngày nay, tập tục nấu bánh chưng Tết là của cả vùng Lĩnh Nam (?).
Xét theo thuyết trung tâm-ngoại vi: Triệu Khánh là trung tâm, Lạc Việt
là ngoại vi?
Tập tục nấu bánh chưng còn lưu giữ ở Triệu Khánh (trung tâm), ở Lạc Việt
(ngoại vi). Vậy tại sao bánh chưng lại được “thiêng hóa”, nâng thành
quốc hồn, quốc túy ở Lạc Việt (ngoại vi) mà không phải là ở Triệu Khánh
(trung tâm)?
2) Nếu coi Lĩnh Nam không bao gồm Âu Việt và Lạc Việt, tức Lĩnh Nam theo nghĩa hẹp:
Triệu Khánh và Lạc Việt sẽ thuộc về hai nhóm văn hóa khác nhau. Vậy tại
sao cảnh quan tập tục nấu bánh chưng lại giống hệt nhau ở hai nhóm văn
hóa khác nhau là văn hóa Lĩnh Nam và văn hóa Lạc Việt?
3) Phải chăng tập tục gói bánh chưng ăn Tết phổ biến khắp cả vùng đất thuộc văn hóa Lĩnh Nam xưa kia?
5. Về Các Tên Gọi “Bánh Chưng”, “Lá Dong”
Chắc hẳn câu hỏi “Vì sao lại gọi là bánh chưng” bấy nay vẫn ám ảnh trong
đầu không ít người. Người ta chỉ đồ rằng gọi là bánh chưng vì bánh này
được nấu bằng cách “chưng”. Nhưng hiểu thế xem ra cũng chưa ổn. Bởi lẽ,
“chưng” trong tiếng Việt có 2 nghĩa:
1. Đun (thức ăn lỏng) cho bốc hơi và đặc lại, như chưng mắm, chưng trứng, chưng lạc, nước mắm chưng…;
2. (từ chuyên môn) Dùng nhiệt làm cho các chất trong một hỗ hợp lần lượt hóa hơi để thu riêng từng chất, như chưng dầu mỏ, chưng than đá… Trong khi đó, bánh chưng lại là bánh được luộc lên trong nồi nhiều giờ.
Tên gọi bánh chưng Triệu Khánh theo tiếng Hán “quả chưng” đã gợi cho
chúng ta về nguồn gốc của từ “bánh chưng” trong tiếng Việt.
“Chưng” 蒸 trong tiếng Hán có nghĩa là “đun cách thủy, hấp cách thủy”,
là nấu mà không để cho thức ăn tiếp xúc trực tiếp với nước. Như chưng bính 蒸饼 (bánh hấp), chưng lung 蒸笼 (lồng hấp; vỉ hấp), chưng thực 蒸
食(thức ăn hấp; bánh hấp)… Cách hấp bánh bao, hấp sủi cảo, hấp các món
cách thủy (cá, trứng…) bằng vỉ hấp hoặc cho vào nồi hấp trong tiếng Hán
được gọi là “chưng”. Rõ ràng là thả bánh vào nồi ngập nước để luộc lên,
tiếp xúc hẳn với nước, mà sao lại gọi là “chưng”? Có lẽ, so với mấy món
hấp nói trên, bánh chưng cũng đã được làm chín bằng lối “cách thủy” nhờ
nhiều lớp lá gói bên ngoài, nên cũng được gọi là “chưng?
Nếu coi nguồn gốc của từ bánh chưng là từ từ裹蒸(pinyin: guǒzhēng; âm Hán-Việt: quả chưng; đọc theo âm Việt:
của châng), “quả 裹” là “bọc, gói”; “chưng 蒸” là “chưng cách thủy, hấp”
thì sẽ có lí hơn. Bởi xét về cả mặt ngôn ngữ lẫn mặt tương đồng về tập
tục gói bánh chưng. Cần nhớ rằng, “chưng” trong tiếng Việt không mang
nghĩa này.
Một cách trùng hợp, khi xem lại bản gốc bằng tiếng Hán “Truyện bánh
chưng” trong “Lĩnh Nam chích quái”, bánh chưng được gọi là 蒸饼 (chưng
bính; “bính” là bánh; “chưng bính” nghĩa là “bánh hấp”), tức cũng dùng
từ “chưng” theo nghĩa tiếng Hán giống như trên. Mặc dù, rất có thể,
tác giả đã mượn Hán văn (Trung Quốc gọi là Văn ngôn văn, một loại ngôn
ngữ sách vở thời cổ đại của Trung Quốc), bởi “Lĩnh nam chích quái” được
viết bằng Hán Văn, để dịch nghĩa từ “bánh chưng”. Nên không thể dựa vào
đây để nói đó là nguồn gốc của từ này. Song có thể nói, đây hẳn là căn
nguyên dẫn tới người Việt chúng ta gọi là “bánh chưng” như hiện giờ.
Sự tìm hiểu về nguồn gốc từ “bánh chưng” đã khiến chúng tôi cảm thấy
không kém phần lí thú khi tiếp xúc với từ “lá dong” 冬叶dongye (đọc đúng
âm là dōng yè) trong tiếng Hán.
Bánh chưng Triệu Khánh được mô tả là gói bằng lá dong. “Lá dong” chữ Hán là 冬叶, pinyin
là dongye, âm Hán-Việt là “đông diệp”, “diệp” có nghĩa là “lá” trong
tiếng Việt. Khoan hãy xét đến nghĩa chiết tự của từ này, nếu chú ý tới
yếu tố “dong” trong dạng pinyin “dongye” của nó, chúng ta sẽ
không khỏi giật mình: Sao mà xét về mặt chữ, “dong” trong “dongye”
tiếng Hán lại giống với “dong” trong “lá dong” tiếng Việt đến thế? Thử
thả trí tưởng tượng một chút, biết đâu xưa kia, chúng đã từng được nói
với cùng âm như nhau?
Trong “Vân Đài loại ngữ” của Lê Quí Đôn, lá dong đã được nhắc tới qua
phần dịch: Sách Quảng Đông tân ngữ [của Trung Quốc] nói: “Đông diệp (lá
dong) giống như lá chuối, lúc nó tươi thì dùng để gói bánh, khi khô
dung gói đồ vật, bịt vò lọ, để lâu được, chon xuống đất nghìn năm không
hư nát. Lá dong khô, dung đánh ngà voi, rất là bóng sáng. Kể các thứ lá
dùng ở Việt Trung, chỉ có lá dong là dùng nhiều nhất. Vì thế, có câu
điệu Trúc chi (Trúc chi từ - chú thích của LQĐ: một thể ca ở Giang Nam, giống như lối ca dao) rằng:
“Ngũ nguyệt nhai đầu nhân mại diệp, Quyển thành phiến phiến tự ba tiêu”
(Tháng năm người bán lá dong, Khác nào lá chuối bán trong phố phường)
6. Về Triết Lí “Trời Tròn Đất Vuông” Gán Cho Bánh Chưng Bánh Dày?
6.1. Trong các loại bánh cổ truyền của Việt Nam, những loại có hình
vuông chỉ đếm được trên đầu ngón tay như bánh chưng, bánh xu sê, bánh
cốm…
Trong tiếng Việt, đã nói “bánh chưng” thì dứt khoát là chỉ chiếc bánh
chưng vuông, còn những loại bánh cũng thuộc “dòng bánh chưng” mà không
có hình vuông (như bánh tét, bánh tày, bánh đòn…) thì chẳng bao giờ được
gọi là bánh chưng.
Vì sao lại gói bánh chưng hình vuông?
một số hình bánh chưng vuông ở TQ
Lâu nay, dường như đã ăn sâu trong tiềm thức, người ta luôn cho rằng, sở
dĩ bánh chưng có hình vuông là người xưa đã gói chúng theo triết lí
“trời tròn đất vuông”, bánh chưng vuông tượng trưng cho đất, bánh dày
tròn tượng trưng cho trời. Bánh chưng dùng dâng Giỗ Tổ Vua Hùng cũng có
hình vuông.
Ấy vậy mà trong thực tế, ở một số vùng, ngay cả ở Phú Thọ - vùng trung
du đất Tổ của các vua Hùng, cũng không thịnh hành gói bánh chưng hình
vuông mà gói dạng tròn dài, gọi là "bánh chưng dài", hay "bánh tày".
Bánh tày còn là loại bánh Tết ở Kinh Bắc và tại nhiều vùng dân tộc thiểu
số miền Bắc Việt Nam.
Nên giải thích hiện tượng này ra sao đây?
Trước tiên, xin thử quay về “Truyện bánh chưng” trong “Lĩnh Nam chích quái” để tìm hiểu ngọn ngành xem sao.
Khi so bản dịch đang được phổ biến với nguyên gốc “Lĩnh Nam chích quái” bằng Hán văn:
Bản dịch: (…) Một đêm kia, mộng thấy có thần nhân tới nói rằng:
"Các vật trên trời đất và mọi của quý của người không gì bằng gạo. Gạo
có thể nuôi người khỏe mạnh mà ăn không bao giờ chán, các vật khác không
thể hơn được. Nay đem gạo nếp làm bánh, cái hình vuông, cái hình tròn
để tượng trưng hình trời đất rồi dùng lá bọc ngoài, ở trong cho mỹ vị để
ngụ ý công đức sinh thành lớn lao của cha mẹ". Lang Liêu tỉnh dậy, mừng
rỡ mà nói rằng: "Thần nhân giúp ta vậy!". Nói rồi bèn theo lời dặn
trong mộng mà làm, chọn thứ gạo nếp trắng tinh, lặt lấy những hạt tròn
mẩy không bị vỡ, vo cho thật sạch, lấy lá xanh bọc xung quanh thành hình
vuông, cho trân cam mỹ vị vào bên trong để tượng trưng cho trời đất,
vạn vật rồi nấu chín, gọi là bánh chưng. Lại lấy gạo nếp nấu chín, giã
cho nát, nặn thành hình tròn,tượng trưng cho trời gọi là bánh dày. (…)
Nguyên văn: (…) 夜梦神人告曰:「天地之物所
贵於人,无过米。所以养人,人能壮也。食不能厌,他物莫能先。当以糯米作饼,或方或圆,以象天地之形,叶包其外,中藏美味,以寓父母生育之重(一作
状)。」郎僚惊觉,喜曰:「神人助我也。」遵而行之。乃以糯米择其精白,选用圆完无缺折者,淅之洁静,以青色叶包裹为方形,置珍甘美味在其中,以象天地包
藏万物焉。煮而熟之,故曰蒸饼。又以糯米炊熟,捣而烂之,捏作圆形以象天,故曰薄持饼。(…)
ta sẽ thấy có những điểm “vênh” đáng lưu ý: Câu “lấy lá xanh bọc xung
quanh thành hình vuông, cho trân cam mỹ vị vào bên trong để tượng trưng cho trời đất, vạn vật rồi
nấu chín, gọi là bánh chưng” đã được dịch chưa đúng hoàn toàn so với
nguyên bản Hán văn. Cần phải dịch lại thành: “lấy lá xanh bọc xung
quanh thành hình vuông, cho trân cam mỹ vị vào bên trong để tượng trưng cho trời đất bao chứa vạn vật, rồi nấu chín, vì thế mà gọi là bánh chưng”.
Như vậy, trong “Truyện bánh chưng” nói gói bánh chưng hình vuông
là “để tượng trưng cho trời đất bao chứa vạn vật”, chứ không phải là “để
tượng trưng cho trời đất, vạn vật” . Cách lí giải ý nghĩa của
chiếc bánh chưng ở đây là mang tính khái quát, chỉ chung cho trời đất
bao chứa vạn vật, chứ không phải nói đích xác là bánh chưng được gói
thành hình vuông cụ thể để tượng trưng cho trời. Vì thế không thể vin
theo Truyện bánh chưng trong “Lĩnh Nam chích quái” để mà khẳng định
“bánh chưng hình vuông là tượng trưng cho trời” được. Lời trong Truyện
đâu có nói thế?
Cũng có người sẽ vin vào cớ trong Truyện bảo “Lại lấy gạo nếp nấu chín,
giã cho nát, nặn thành hình tròn, tượng trưng cho trời gọi là bánh dày”,
rồi dùng phép loại suy để nói thứ bánh vuông còn lại dứt khoát phải là
bánh chưng, hay nói cách khác, bánh chưng là hình vuông. Thử hỏi suy
diễn như vậy liệu có sức thuyết phục không? Ai đó có quyền suy diễn thế
nào thì tùy, còn ở đây chúng tôi chỉ muốn nói: Trong Truyện không có câu
nào nói bánh chưng được “nặn thành hình vuông tượng trưng cho đất”
tương tự như khi nói về bánh dày cả. Người đời nay chỉ dựa vào một câu
chuyện kể theo truyền thuyết rồi khẳng định chắc chắn, liệu rằng có quá
viển vông?
Vả lại, lấy gì bảo đảm người chép nên Truyện này đã không tự ý đưa ý
tưởng gán ghép riêng của mình vào mà không dựa trên một nền tảng triết
lí đích thực?
Vậy thì căn cứ vào đâu để khẳng định một cách chắc chắn rằng bánh chưng
bánh dày là gắn với triết lí “trời tròn đất vuông”? Chỉ một trong hai
cái ấy không tạo được hiệu ứng tương tự. Vuông đứng một mình chỉ là
vuông. Tròn đi một mình chỉ là tròn. Nhưng “vuông tròn” sẽ tạo nên khái
niệm trời đất,
Chỗ dựa vững chãi nhất cho triết lí này là “Truyện bánh chưng” trong
“Lĩnh Nam chích quái” , thế nhưng “Lĩnh Nam chích quái” đâu phải là
chính sử? “Lĩnh Nam chích quái” (《嶺南摭怪》), còn gọi là “Lĩnh Nam chích
quái truyện” (《嶺南摭怪列傳》), bộ thư tịch cổ của Việt Nam được viết bằng Hán
ngữ văn ngôn, nội dung gồm những câu chuyện thần thoại được lưu truyền
trong dân gian là chính. Nguyên tác giả chưa rõ, tương truyền là Trần
Thế Pháp soạn, thế nhưng Trần Thế Pháp sống vào thời nào vẫn chưa thể
biết đích xác, ngay cả nguyên bản “Lĩnh nam chích quái” của ông cũng
chẳng được lưu truyền lại, Những câu chuyện thần thoại trong sách đã
xuất hiện từ đời Lí Trần. Đến cuối thế kỉ 15, xuất hiện phiên bản 2
quyển gồm hơn 20 truyện do Vũ Quỳnh, Kiều Phú tu đính hiệu chính. Sau
này người đời còn thêm những câu chuyện khác nữa vào sách. “Lĩnh Nam
chích quái” không phải là thủ bút của một tác giả, mà cũng không phải
viết ở cùng một thời kì, chủ yếu là sưu tập từ các truyền thuyết thần
thoại Việt Nam, truyện truyền kì Trung Quốc, cùng một số ít thần thoại
Ấn Độ.
Cố giáo sư Trần Quốc Vượng cho rằng bánh chưng cổ xưa không phải là hình vuông.
Còn khi bàn về triết lí “trời tròn đất vuông” trong bánh chưng bánh dày, ông nói:
"Bánh chưng vuông tượng đất, bánh dày tròn tượng trời là một triết lý
rất Trung Hoa nhưng triết lý ấy thực ra còn chưa có ở đời Hán. Vậy, làm
gì có chuyện "bánh chưng vuông tượng trời" ra đời ở Việt Nam vào thời
Hùng Vương? Ở Cổ Loa, thủ đô của nước Âu Lạc, nơi chỉ cách trung tâm Hà
Nội có 17 km mà bây giờ vẫn có rất ít bánh chưng vuông. Họ thường gói
bánh chưng tròn, còn gọi là bánh tét hay là bánh tày"
Ông Vượng nói rất có lí, song cái ý ông nói triết lí bánh chưng vuông
tượng đất, bánh dày tròn tượng trời “thực ra chưa có ở đời Hán” là để so
sánh điều gì? Bởi ngay Trung Quốc cũng có xác định được niên đại cho
triết lí “trời tròn đất vuông (tức “thiên viên địa phương”) đâu?
Tốt hơn hết là chúng ta cần tìm hiểu thực hư triết lí “trời tròn đất vuông” là ra sao?
6.2. Trời tròn đất vuông (nguyên văn tiếng Hán: Thiên viên địa
phương天圆地方) là một dạng thể hiện của Học thuyết âm dương. Học thuyết âm
dương ngũ hành là tư tưởng triết học duy vật biện chứng thô phác cổ đại
của Trung Quốc. Văn hóa truyền thống Trung Quốc phong phú tinh thâm, mà
Học thuyết âm dương lại là cốt lõi và tinh thần của văn hóa ấy. Học
thuyết âm dương, mang màu sắc phép biện chứng thô phác, là phương thức
tư duy nhận thức thế giới của các nhà hiền triết Trung Quốc, thực tiễn
xã hội mấy ngàn năm đã chứng minh được tính chuẩn xác của nó, mà “thiên
viên địa phương” là một dạng thể hiện cụ thể của học thuyết này.
“Thiên viên địa phương” là sự nhận thức về vũ trụ của khoa học cổ đại.
Phương pháp chủ yếu trong quá trình nhận thức vũ trụ của người xưa khác
hoàn toàn với phương pháp thực nghiệm thực chứng của khoa học hiện đại,
“nội chứng” là phương pháp chủ yếu để nhận thức vũ trụ của người xưa, mà
phương pháp này là dựa vào mô hình tuần hoàn năng lượng nhất định của
sinh mệnh cơ thể để không ngừng tăng cường năng lượng cơ thể tự thân, từ
đó đạt tới năng lực vượt qua cảm nhận thông thường của công chúng. Như
chúng ta đã biết, năng lực cảm nhận của ngũ quan người thông thường là
hữu hạn, đây cũng là là sự giới hạn trong phát triển khoa học hiện đại.
Còn các khoa học gia cổ đại thì thông qua tu tập “nội chứng” mà có thể
nâng cao được năng lượng tự thân, cuối cùng quan sát được chân tướng của
vũ trụ tinh vi và qui luật vận hành năng lượng trong đó: Âm dương ngũ
hành. Trong cuốn sách quí Đông y cổ đại Trung Quốc “Hoàng đế nội kinh”
đã nêu rất rõ học thuyết ngũ vận lục khí, học thuyết này về bản chất là
sự tổng kết sự vận hành nguồn năng lượng trời đất ở những tầng cấp nhất
định, mà người xưa đã phát hiện thấy, mỗi khi nguồn năng lượng trong
trời đất có sự biến đổi, sẽ dần được thể hiện ở thế giới tương đối vĩ mô
mà người ta có thể nhìn thấy, chẳng hạn như khi mùa xuân tới dùng nguồn
năng lượng thuộc “mộc” lấy đông phương thất túc làm đại diện, thì mặt
đất sẽ tan băng, hạt giống bắt đầu nảy mầm, mọi sinh mệnh đều được loại
năng lượng này đánh thức, bước vào vòng “Xuân sinh, hạ trưởng, thu thu,
đông tang” mới, cùng với sự thay đổi của 4 mùa, trạng thái sức khỏe của
cơ thể cũng chịu những sự tác động khác nhau
Do loại năng lượng này có chu kì quay vòng 60 năm, lặp đi lặp lại, như
vòng tròn bất tận, nên người xưa nói là “thiên viên” (“天圆”), dùng để
miêu tả đặc điểm của thời gian. Đồng thời, người xưa khi nói về phương
vị, lại dùng “4 mặt 8 hướng” (“tứ diện bát phương”) để miêu tả, còn gọi
là “địa phương” (“地方”). “Thiên viên địa phương” chính là nói về không
gian và thời gian, cũng chính là nói về diện mạo thực của vũ trụ!
Trong “trời tròn đất vuông” còn hàm chứa một lí thuyết tinh hoa của văn
hóa truyền thống Trung Quốc: Vạn sự vạn vật đều từ không đến có, đồng
thời còn có mối quan hệ chặt chẽ với sự biến đổi năng lượng trong trời
đất, cho nên người xưa nói “thiên địa hợp nhất”
Gốc rễ bản chất của “Thiên viên địa phương” là bắt nguồn từ sự tiến hóa
của Bát quái tiên thiên, suy ra vận hành đồ của trời đất, cũng chính là
Thiên viên địa phương đồ (Do nhà tu hành Đạo gia Trần Đoàn lão tổ truyền lại)
Thiên viên địa phương đồ
Thiên viên địa phương đồ: Các hình quẻ bao quanh tròn bên ngoài đại diện
cho qui luận vận hành của trời, còn những hình quẻ xếp thành hình vuông
ở bên trong thì đại diện cho qui luật vận hành của đất. trong đó, trời
là chủ, đất là thứ, trời là dương, đất là âm. Âm dương cảm ứng lẫn nhau,
sinh thành trời đất vạn vật, con người nằm trong đó được cấu thành bởi
các chất tinh hoa của đất trời. Vì thế mà con người được coi là linh của
trời đất vạn vật, có thể cảm thông được với vạn vật, là kẻ tối linh.
Ghi chép lịch sử
Sách “Thượng thư. Ngu Thư. Nghiêu thư” ngay mở đầu đã nói Nghiêu đợi cho
thiên hạ thái bình xong: Sẽ vâng lệnh Hi Hòa (nữ thần Mặt Trời của
Trung Quốc), tự thay trời để tính ra sự vận hành của mặt trời, mặt
trăng, sao, truyền dạy về thời vụ cho bách tính. Tiếp đó vâng lệnh Hi
Hòa, Hi Trọng, Hòa Trọng, Hòa Thúc chia ra đi khắp bốn phương để truyền
bá văn minh (tức nội dung minh giáo), đó chính là lí thuyết và thực hành
về “thiên viên địa phương” sớm nhất. Trong đó có thể lấy chứng cứ từ Hà
đồ Lạc thư, “thiên viên – trời tròn” cố nhiên không phải là sự nhận
thức tinh xác như ngày nay, song đã uẩn súc thứ vũ trụ quan thô phác,
còn “địa phương” thì chỉ hệ tọa độ đất bằng, “phương 方” chỉ phương vị
hoặc góc phương vị, tức Tí đại diện cho hướng Bắc, Ngọ đại diện cho
hướng Nam, Dậu đại diện cho hướng Tây, Mão đại diện cho hướng Đông, đồng
thời dùng 12 Địa chi, 8 Thiên can, 4 Quái tượng để biểu thị 24 phương
hướng, hợp thành chỉnh thể Chu thiên (vòn tròn 360 độ). Đây mới là diện mạo thực của Thiên viên địa phương.
Nội hàm văn hóa
Đạo gia cho rằng: “Trời tròn (Thiên viên)” về mặt tâm tính phải viên
xúc mới có thể thông đạt; “đất vuông (địa phương)” về mệnh sự phải
nghiêm cẩn điều lệ; văn hóa Trung Quốc đề xướng “Thiên nhân hợp nhất”,
coi trọng hiệu pháp tự nhiên, nguyên tắc “thiên viên địa phương” được
suy tôn trong thuật phong thủy chính là một loại chú giải đặc thù về vũ
trụ quan này. “Viên (tròn) thì wunie, nghĩa là ‘bất an’, phương (vuông)
là ‘lận sắc –thu lại’
( “圆则杌棿(wunie,音乌捏,意为不安),方为吝啬”) là mệnh đề triết học của Dương Hùng
đời Tây Hán. “Viên “tròn)” chỉ trời; wunie杌棿 chỉ động dao bất định;
“phương (vuông)” chỉ đất, “lận sắc” chỉ thu liễm (thu lại). “Viên tắc
wunie, phương vi lận sắc” (“圆则杌棿,方为吝啬”)
Có nghĩa là : Trời tròn thì sản sinh vận động biến hóa, đất vuông thì thu liễm tịnh chỉ (thu lại tĩnh tại).
Truy cầu sự phát triển biến hóa, thì chúng ta mới có thành tựu về sự
nghiệp, loài người mới không ngừng tiến bộ; mong muốn tĩnh tại ổn định,
thì chúng ta mới có được cuộc sống an nhàn, thế giới mới được chung sống
hòa bình. Kiến trúc là do con người tạo nên, nó tất thể hiện sự truy
cầu và lòng ước vọng của con người, vì thế “thiên viên địa phương” là
nội dung không thể thiếu trong kiến trúc của loài người.
Theo người xưa, “vuông, tròn” ở đây vốn không phải là hình hình học có
giới hạn, mà là một sự trừu tượng về tính chất. Cũng giống như ngũ hành
trong cơ thể, không thể cảm nhận một cách ngớ ngẩn mà nói trong cơ thể
người có sinh gỗ và sinh vàng.
Nếu cho “ vuông, tròn” ở đây là hình hình học, vậy thì vật lạ Hỗn thiên
nghi có hình tròn được lưu truyền suốt từ đời Hán đến đời Thanh là từ
đâu tới?
Cho nên ý nghĩa của “tròn” ở đây phải là ý nghĩa thể hiện sự biến động,
linh hoạt, cứu tế cho, đó chính là quẻ Càn, còn ý nghĩa của “vuông” ở
đây là ý nghĩa thể hiện sự thừa tải, ổn định, bất động, đó chính là quẻ
Khôn, chứ không phải là hình hình học theo nghĩa hẹp. Ví dụ như làm
người đối nhân xử thế phải “ngoài tròn trong vuông” (ngoài mặt thì xuề
xòa, bên trong thì cương quyết) chính là thể hiện ngữ nghĩa này.
“Vuông tròn” trong kiến trúc hoặc về hình học cũng chỉ là một sự tượng trưng cho tính chất trừu tượng này.
“Vuông tròn” không hề bị giới hạn trong hình hình học, mà là một loại trừu tượng triết học.
Khái niệm 2 của “thiên viên địa phương”: Trời có hình tròn, đất có 4
phương, chứ không phải là chúng ta nghĩ một cách đương nhiên rằng đất có
hình vuông. Các học giả xưa không thể ngu ngốc đến mức định bằng một
lời như thế, mà không có khoảng chừa nào.
“Thiên viên địa phương” không hề là hình dạng, ngay từ thời “Kinh dịch”
đã có quan niệm tương tự, quẻ Khôn là nói về sự ngay thẳng, đứng đắn,
chính trực, có thể thấy “phương” ở đây chỉ một loại phẩm chất, một phẩm
chất ngay thẳng, chính trực. Trong “Hoàng đế nội kinh” cũng có “thiên
viên địa phương”, đầu tròn chân vuông để ứng với nó.
6. 3. Khái niệm “vuông tròn” trong văn hóa Việt
Khái niệm “vuông tròn” trong văn hóa Việt cũng không phải chỉ “vuông”,
“tròn” theo nghĩa hình hình học, mà cũng mang ý nghĩa khái quát. Từ
“vuông tròn” trong tiếng Việt chỉ sự tốt đẹp về mọi mặt, thường nói về
chuyện tình duyên hay việc sinh đẻ, như sinh nở được vuông tròn, mẹ tròn con vuông (có nghĩa là cuộc sinh nở tốt đẹp bình thường, cả hai mẹ con đều khỏe mạnh, một kết quả đúng như người ta trông đợi.), hay tính cuộc vuông tròn (có nghĩa là tính chuyện hôn nhân).
Khi nói “mẹ tròn con vuông” là người ta muốn nói một kết quả tốt đẹp.
Chứ mẹ đâu có tròn. Trong thời gian đang mang bầu thì còn cái bụng tròn.
Nhưng sau khi sanh rồi đâu còn tròn nữa. Còn con thì nhất định không
thể vuông được. Trên thực tế, nếu một sản phụ không may đẻ ra một đứa
trẻ có hình dạng thực sự vuông là điều thậm vô phúc.
Hãy lấy một câu khác: “Trăm năm tính chuyện vuông tròn” . “Chuyện vuông
tròn” là chuyện lứa đôi, chuyện âm dương kết hợp để tồn tại và tiếp nối
dòng sinh hóa.
Hoặc:
Hoặc:
Đấy mà xử ngãi (nghĩa) vuông tròn
Ngàn năm ly biệt vẫn còn đợi trông (Ca dao)
“Ngãi vuông tròn” là nghĩa vợ chồng, nghĩa thủy chung.
Đó là chuyện ăn đời ở kiếp với nhau.
Tiếng Việt cũng có “ngoài tròn trong vuông” nói về phép ứng xử khôn khéo…
Qua đây có thể thấy, nếu đem triết lí “trời tròn đất vuông” để giải
thích cho hình dáng chiếc bánh chưng có hình vuông thì quả là thật khiên
cưỡng.
Vậy nên, chuyện vì sao lại gói bánh chưng hình vuông vẫn còn là điều bí ẩn.
THÔNG TIN BỔ SUNG :
Một thông tin đáng quí để lần tìm chiếc bánh chưng vì sao có hình vuông
đã đến với người viết một cách thật tình cờ. Thông tin này dẫn ta đến
với tộc người Arem: “Người anh em Arem của chúng ta có tục gói bánh tết
của riêng họ. Tết của họ trùng với Tết của người Kinh nhưng chiếc bánh
của họ là hồn văn hóa riêng họ. Không lẫn đâu được. Đó là mặc định diệu
vợi của lề lối văn hóa mà họ không bao giờ để cho nó biến mất. Chiếc
bánh ấy được gọi là bánh Tapeng arua. Trong thuật ngữ bản địa của bánh,
bao gồm gói ghém trong đó cả đất, trời, nước, lửa của thế giới gian,
nhân sinh quan nên Tapeng arua là bảo vật tinh thần của người anh em
này...” (Cu Làng Cát FB).
Hãy xem chiếc bánh chưng của dân tộc Kinh được mô tả trong "Lĩnh Nam
chích quái":
“(...) lấy lá xanh bọc xung quanh thành hình vuông, cho trân cam mỹ vị
vào bên trong để tượng trưng cho trời đất bao chứa vạn vật, rồi nấu
chín, vì thế mà gọi là bánh chưng”
sao mà giống với ý nghĩa của chiếc bánh Tapeng arua mà người Arem gói
trong dịp Tết đến vậy.
Chưa hết, chiếc bánh Tapeng arua lại được gói theo hình vuông. “Đinh
Đan vót từng thanh lạt, dùng lá dong gói chiếc Tapeng arua, chiếc bánh
hình vuông. Mỗi lần gói chỉ đổ vào một bát gạo nếp, không có nhân, cứ
xong hai cái Tapeng arua, Đinh Đan lại ốp chúng vào nhau, gói chặt lại
bằng hai chiếc lạt từ ống dang già lấy bên bìa rừng. Đó là chiếc bánh
truyền thống mỗi mùa lễ trọng của người A rem, chiếc bánh đẫm hương vị
mặn nồng, ấm cúng như chiếc bánh chưng của anh em người Kinh. Nhưng nó
khác là nhỏ hơn.
Chiếc bánh hình vuông, biểu tượng của trời và đất theo thế giới quan của
người A rem. Xưa xa trong ý niệm của người A rem, trời hình vuông và
đất cũng hình vuông. Mọi vật đều tinh khiết, trắng trong như gạo nếp
trên rẫy. Lòng người cũng trắng trong như thế, nên chiếc Tapeng arua
được sinh ra để tổ tiên dạy bảo con cháu nhớ về tích xưa đất cũ của
người A rem.
Người A rem cho rằng, tổ tiên họ có người con trai tên là Đinh, con gái
tên là Y, hai người sinh ra từ đất và trời. Họ yêu nhau, thắm thiết như
chim trên núi, chung thủy như cá
của suối. Hai người đến với nhau, Giàng nói phải có lễ vật. Người con
trai và người con gái cùng suy nghĩ, họ không có thổ sản quý hiếm, chỉ
có chiếc bánh vuông là cái quý của
gia tài lao động. Họ gặp nhau trong thung lũng, Đinh đưa ra sản vật cầu
hôn, Y đáp lại lễ vật của mình, ráp vào nhau, một khuôn y hệt. Từ đó họ
sinh con đẻ cái, làm cái
Tapeng arua mỗi mùa lễ trọng và dạy con cháu biết thủy chung, thương
yêu để nhớ về tổ tiên”.
Đọc thêm Tết ở bản A rem, Minh Phong tại http://www.qbvn.com/2012/01/tet-o-ban-a-rem.html)
Tết ở bản A rem
Muốn biết Arem là tộc người ra sao phải tìm hiểu về người Chứt. Người
Chứt, còn gọi là người Rục, người Sách, người A rem, người Mày, người Mã
liềng, người Tu vang, người Pa leng, người Xe lang, người Tơ hung,
người Cha cú, người Tắc cực, người U mo, người Xá lá vàng, là một dân
tộc ít người sinh sống tại Lào và Việt Nam.
Thực tế, 7 tên gọi Sách, Mày, Rục, Mã Liềng, Arem, Xơ-lang, Umo dùng để chỉ 7 nhóm trong tộc người này. Nói cách khác, người Arem là một trong 7 nhóm của tộc người Chứt.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Chứt ở Việt Nam có
dân số 6.022 người, cư trú tại 23 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người
Chứt cư trú tập trung tại các tỉnh: Quảng Bình (5.095 người, chiếm
84,6% tổng số người Chứt tại Việt Nam), Đắk Lắk (435 người), Lâm Đồng
(266 người), Hà Tĩnh (156 người)
Tại Lào, theo Điều tra dân số năm 1995 của Lào, ước tính có khoảng 450 người Chứt sinh sống tại tỉnh Khammouan.
Người Chứt là tộc người sử dụng ngôn ngữ cùng ngữ hệ với tiếng Việt.
Tiếng Chứt được nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm vì gần gũi với tiếng
Kinh nguyên thủy. Giáo sư Trần Trí Dõi đã nhận xét tiếng Chứt như "bảo
tàng lưu giữ các giai đoạn phát triển của tiếng Việt". Văn hóa của người
Chứt cũng cho phép tìm lại lịch sử phát triển của người Việt cổ.
(Theo http://vi.wikipedia.org/wiki/ Người_Chứt)
Qua đây, ta thấy có mấy điểm rất đáng lưu ý: 1) Tết của người Arem trùng
với Tết của người Kinh. 2) Người Arem gói bánh Tapeng arua vừa mang ý
nghĩa lại vừa có hình vuông tương tự như chiếc bánh chưng vuông của
người Việt. 3) Người Chứt là tộc người sử dụng ngôn ngữ cùng ngữ hệ với
tiếng Việt, gần với tiếng Kinh nguyên thủy. 4) Từ văn hóa của người
Chứt mà có thể tìm lại lịch sử phát triển của người Việt cổ.
Vậy phải chăng có thể suy ra người Arem và người Kinh có chung một "hồn
văn hóa"? Đồng thời, phải chăng ta đã tìm được về cội nguồn của chiếc
bánh chưng vuông?
Hà Nội, những ngày cận Tết Giáp Ngọ 2014
Hà Nội, những ngày cận Tết Giáp Ngọ 2014
Cảm ơn. Rất tuyệt.
Trả lờiXóaMẹ tôi nói, khi xưa giặc Minh tràn tới Việt Nam, người dân gói bánh chưng xong không kịp ăn Tết phải thả xuống giếng để chạy giặc. Khi Lê Lợi hành quân thần tốc ra Bắc, sau khi phá tan quân Minh, người dân trở về và lấy bánh từ giếng lên ăn thấy ngon và để được lâu. Từ đó bánh chưng sau khi luộc chín thì rửa sạch nhớt bên ngoài, ngâm vào nước lạnh, rồi ép nhẹ giữa 2 tấm ván.
Cảm ơn câu chuyện hay của bác.
XóaCháu thì cháu nghi ngờ cái tích trời tròn đất vuông này lắm. Quê cháu ở Phú Thọ, tạm gọi là đất tổ, nhân dân toàn gói thứ bánh chưng dài mà người Nam Bộ gọi là bánh tét. Ngu ý của cháu thì như thế này. Cháu xin trình bày ra đây xin các bác chỉ giáo
XóaNgười Việt cổ vốn có tín ngưỡng phồn thực, nên bánh chưng dài tượng trưng cho sinh thực khí của đàn ông; bánh dày tròn, dẹt tượng trưng cho sinh thực khí đàn bà. Chứ mầy cái "trời tròn đất vuông" là quan điểm triết học của Tàu du nhập vào Việt Nam, thời các vua Hùng lấy đâu ra cái học thuyết đó mà Lang Liêu giải thích được thế ạ.
Bài viết rất hay , rất sâu, rất rộng . Xin cám ơn tác giả . Kính tặng lại hai câu đối xưa ngày Tết :
Trả lờiXóaTHỊT MỠ DƯA HÀNH CÂU ĐỐI ĐỎ
CÂY NÊU TRÀNG PHÁO BÁNH CHƯNG XANH
Xin cảm ơn người ẩn danh Nam Bộ về món quà. Chúc một Mùa Xuân tốt lành.
XóaNửa đêm thức dậy thấy người hỏi thăm / Định rằng sáng dậy sẽ hồi âm / Ai dè nắng lên vừa tỉnh giấc nồng / Người đi mất dạng biết đâu mà tìm !
Trả lờiXóaGửi người hỏi thăm trong đêm qua . Xin đa tạ. Dù sao cũng là một chút tình . Luôn luôn đáng trân trọng . Đa tạ . Đa tạ !
Cảm ơn. Bài viết rất hay, nghiên cứu rất nghiêm túc.
Trả lờiXóaChúc tác giả năm mới an khang.
Xin cảm ơn Nguyen Quang Toan nhiều.
Trả lờiXóa