Thác Bản Giốc - Những căn cứ pháp lý
(Phản biện bài trả lời của ông Trần Công Trục [1])
Mai Thái Lĩnh
Trước hết, tôi ghi nhận thiện ý của ông Trần Công Trục khi ông viết: “tôi
mong muốn thông qua quá trình trao đổi, đối thoại để thu hẹp khoảng
cách trong nhận thức xã hội về vấn đề chủ quyền lãnh thổ sao cho có lợi
nhất cho công cuộc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ hợp pháp của quốc gia, dân
tộc, đặc biệt trong bối cảnh căng thẳng trên Biển Đông ngày càng gia
tăng và tiềm ẩn những nhân tố khó lường.”
Tuy nhiên, để có thể “thu hẹp khoảng cách” trong nhận thức của xã
hội về vấn đề chủ quyền lãnh thổ, chúng ta không thể dựa trên ý chí của
từng cá nhân, từng nhóm người hay thậm chí dựa trên ý chí của một đảng
chính trị – cho dù đảng đó đang nắm giữ bộ máy Nhà nước. Khoảng cách đó
chỉ có thể được thu hẹp và tạo nên sự đồng thuận một khi dựa trên quyền
lợi chung của toàn dân tộc, và nhất là phải tôn trọng sự thật. Ngày nay,
với phương tiện truyền thông có tính toàn cầu, không thể bưng bít sự
thật hay tìm cách khuôn sự thật theo ý muốn của một cá nhân hay một nhóm
người nào cả.
Về những bằng chứng lịch sử liên quan đến Thác Bản Giốc, tôi có một
cách nhìn hoàn toàn khác với ông Trần Công Trục, bởi vì đối với đường
biên giới Việt-Trung – vốn là một đường biên giới có lịch sử lâu đời và
có liên quan đến sự tồn vong của dân tộc ta, đất nước ta, không thể
không đề cập đến phương diện lịch sử. Hơn thế nữa, những bằng chứng lịch
sử đó có từ rất lâu – trước khi Đảng Cộng sản nắm chính quyền trên toàn
miền Bắc, thậm chí trước khi Đảng Cộng sản ra đời, vì thế không thể nói
rằng đó là kết quả của “hệ thống tài liệu tuyên truyền chính thức”
trong giai đoạn cuối thập niên 1970 – khi quan hệ giữa hai nước trở nên
căng thẳng. Chính vì lẽ đó, tôi đã giới thiệu lại các bài viết của ông
Diệp Đình Huyên (tức Hàn Vĩnh Diệp) để chứng minh rằng “Thác Bản Giốc
hoàn toàn thuộc về Việt Nam” từ rất lâu và suốt trong thời kỳ quan hệ
giữa hai nước vẫn còn hữu hảo, phía Trung Quốc không hề thắc mắc gì về
“sự thật” này. Hơn thế nữa, nếu Việt Nam thật sự là một quốc gia dân chủ
bảo đảm đầy đủ quyền tự do ngôn luận cho mọi công dân thì sẽ có rất
nhiều người noi gương ông Diệp Đình Huyên sẵn sàng đứng ra làm nhân
chứng cho “sự thật” đó.
Trong phạm vi của bài phản biện này, tôi tạm thời gác lại khía cạnh
lịch sử của chủ đề “Thác Bản Giốc”, để tập trung bàn về những căn cứ
pháp lý.
1) Tại sao các tài liệu liên quan đến Thác Bản Giốc và Cồn Pò Thoong không được mang đi đàm phán?
Ông Trần Công Trục viết: “Về nguyên tắc chung tôi đã nói rõ trong
bài phỏng vấn ngày 3/9 trên Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam cũng như
nhiều lần đã phân tích, các tài liệu ông Lĩnh nêu ra trên đây mặc dù là
tài liệu chính thức của các cơ quan nhà nước Việt Nam ban hành công khai
và rộng rãi thời kỳ những năm 1979 nhưng không được xem là “căn cứ pháp
lý” được thỏa thuận để làm cơ sở giải quyết tranh chấp biên giới phía
Bắc, vì rõ ràng các tài liệu này không phải là bộ phận cấu thành của
Công ước Pháp – Thanh 1887, 1895 mà 2 nước Việt Nam, Trung Quốc đã thỏa
thuận lấy làm căn cứ pháp lý để hai bên tiến hành hoạch định biên giới.”
Như vậy, theo ông Trục, các tài liệu này không được sử dụng vì “không
phải là bộ phận cấu thành của Công ước Pháp – Thanh 1887, 1895 mà 2
nước Việt Nam, Trung Quốc đã thỏa thuận lấy làm căn cứ pháp lý để bai
bên tiến hành hoạch định biên giới.”
Thế nhưng, việc lấy hai công ước Pháp-Thanh 1887 và 1895 để làm cơ sở đàm phán trong vấn đề biên giới không phải là điều mới mẻ. Theo cuốn VĐBG (Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc) [2]
thì vào năm 1977, để phá vỡ thế bế tắc trong đàm phán biên giới, phía
Việt Nam đã đưa ra một “dự thảo hiệp định” [3], trong đó điều 1 có nội
dung như sau:
[Điều 1] “Hai bên chính thức xác nhận đường biên
giới giữa Việt Nam và Trung Quốc đã được hoạch định và cắm mốc theo các
văn kiện về biên giới ký kết giữa Chính phủ Cộng hoà Pháp và Chính phủ
nhà Thanh Trung Quốc là đường biên giới quốc gia giữa nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa.
Các văn kiện biên giới đó gồm có: (1) Công ước về hoạch định biên
giới giữa Bắc Kỳ và Trung Quốc ký ngày 26 tháng 6 năm 1887, với các
biên bản và bản đồ hoạch định kèm theo. (2) Công ước bổ sung Công ước về
hoạch định biên giới giữa Bắc Kỳ và Trung Quốc ngày 26 tháng 6 năm
1887, ký ngày 20 tháng 6 năm 1895, với các biên bản và bản đồ hoạch định
kèm theo. (3) Các biên bản và bản đồ cắm mốc thực hiện hai Công ước nói
trên ký kết từ ngày 15 tháng 4 năm 1890 đến ngày 13 tháng 6 năm 1897,
ngày hoàn thành việc cắm mốc đoạn đường biên giới giữa Bắc Kỳ (Việt Nam)
và tỉnh Vân Nam (Trung Quốc). Trong các điều khoản sau đây, các văn
kiện về biên giới nói trên được gọi tắt là “ Công ước 1887 và Công ước
1895”.
Nội dung này không có gì khác với “nguyên tắc chung” mà ông Trần Công Trục nêu ra.
Vấn đề đặt ra là: tại sao dựa vào điều khoản căn bản đó, Bộ Ngoại
giao Việt Nam vào cuối thập niên 1970 vẫn có đủ căn cứ pháp lý để khẳng
định rằng phía Trung Quốc đã “vi phạm ngày càng nghiêm trọng sự thoả
thuận đó và không tôn trọng nguyên tắc giữ nguyên trạng đường biên giới
do lịch sử để lại, và đã lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam ở 90 điểm trên toàn
tuyến biên giới Việt Trung từ 1949 đến nay.”? [4] Bất cứ ai đọc được điều này cũng có thể đặt câu hỏi: Bộ Ngoại giao Việt Nam vào thời kỳ đó đã căn cứ vào hệ thống bản đồ nào và những chứng cứ pháp lý nào để khẳng định Trung Quốc vi phạm đường biên giới?
Mặt khác, ông Trần Công Trục lại viết: “Tôi không phủ nhận những
giá trị của các tài liệu chính thức của ta mà ông Mai Thái Lĩnh đề cập,
nhưng nó chỉ có giá trị trong thời điểm đó và bối cảnh đó, những tài
liệu như vậy không thể mang đi đàm phán.”
Điều này quả thật rất khó hiểu. Hãy lấy một ví dụ: các tài liệu
chứng minh “vào năm 1976 Trung Quốc đã dùng vũ lực xâm chiếm cồn Pò
Thoong – một địa điểm hoàn toàn thuộc chủ quyền của Việt Nam” thì cho dù
vào năm 1979 hay vào năm 1999 cũng đều có giá trị như nhau chứ sao lại
“chỉ có giá trị vào năm 1979” và đến thập niên 1990 lại “không thể mang
đi đàm phán”?
Để hiểu rõ vấn đề này, có lẽ chúng ta cần phải tìm hiểu ý nghĩa của
các tài liệu mà tôi nêu ra trong bài “Sự thật về Thác Bản Giốc”:
- Tài liệu 1 về việc Trung Quốc đã “sửa bản đồ” vào năm 1955-56 để âm mưu chiếm cồn Pò Thoong và một phần Thác Bản Giốc:
đây chính là bằng chứng về việc Trung Quốc đã sửa chữa bản đồ, làm sai
lạc vị trí của cột mốc 53; nói cách khác qua tài liệu này chúng ta được
biết cột mốc 53 nằm ở vị trí khác chứ không phải nằm ở vị trí của cột
mốc 835 (mới) hiện nay (xem bản đồ – hình 1 và hình 2):
Hình 1: Sơ đồ Thác Bản Giốc được phân chia lại
Cột mốc 835 chính là vị trí mới của cột mốc 53
- Tài liệu (2) về việc xây dựng trạm thủy văn trên cồn Pò Thoong vào thập niên 1960: chứng minh vào thập niên 1960, cồn Pò Thoong hoàn toàn thuộc về Việt Nam;
- Tài liệu (3) về việc Trung Quốc đưa quân lấn chiếm cồn Pò Thoong vào năm 1976:
chứng minh Trung Quốc đã lấn chiếm cồn Pò Thoong bất hợp pháp, vì vậy
việc chia cồn này theo công thức “1 phần 4 thuộc về Việt Nam, 3 phần 4
thuộc về Trung Quốc” là hoàn toàn bất hợp lý;
- Tài liệu (4) gồm hai tờ bản đồ Trùng Khánh số hiệu 6354-IV do Quân đội Nhân dân Việt Nam in vào những năm 1976 và 1980: cho phép xác định vị trí của các cột mốc cũng như đường biên giới một cách chính xác (xem bản đồ tại hình 3).
Hình 3: Vị trí nguyên thủy của cột mốc 53 (Trích bản đồ Trùng Khánh 6354-IV)
Có thể nói: từ bỏ các tài liệu đó đồng nghĩa với việc từ bỏ các vũ
khí pháp lý hữu hiệu nhất để bảo vệ “chủ quyền của nước ta đối với cồn
Pò Thoong và toàn bộ Thác Bản Giốc”.
Theo ông Trần Công Trục: “Những người làm công tác đàm phán chúng
tôi đã nghiên cứu kỹ các tài liệu ông Mai Thái Lĩnh vừa nêu nên chúng
tôi rất hiểu và chia sẻ những băn khoăn của dư luận cũng như của ông Mai
Thái Lĩnh.” Nếu đã nghiên cứu kỹ thì các vị làm công tác đàm phán
không lẽ không biết vị trí nguyên thủy của cột mốc 53? Không lẽ các vị
không biết Trung Quốc đã sửa bản đồ để âm mưu chiếm cồn Pò Thoong và một
phần Thác Bản Giốc? Không lẽ các vị không biết Trung Quốc đã chiếm cồn
Pò Thoong vào năm 1976 và đã “cho công nhân cấp tốc xây dựng một đập
kiên cố bằng bê tông cốt sắt ngang qua nhánh sông biên giới” và như vậy
là đã làm biến dạng cồn Pò Thoong?
2) Tại sao lại công nhận vị trí mới của cột mốc 53?
Nhưng tại sao trong khi từ bỏ các chứng cứ pháp lý có sẵn trong tay,
các nhà ngoại giao nước ta lại “sốt sắng” công nhận vị trí mới của cột
mốc số 53 được đoàn khảo sát “phát hiện” ra tại một địa điểm ngay trước
mặt cồn Pò Thoong?
Vào năm 2002, ông Lê Công Phụng trả lời phóng viên Thu Uyên của VASC Orient [5] như sau:
VASC Orient: Chẳng nhẽ tất cả các khách du lịch,
trong đó có những người có trách nhiệm, đi thăm thác Bản Giốc mà không
phát hiện ra cột mốc nằm đó hay sao?
Ông LCP: Cột mốc không nằm sát Bản Giốc. Khi chúng
tôi khảo sát thì mới thấy cột mốc nằm trên một cồn nhỏ ở giữa suối, cách
đấy khoảng mấy trăm thước. Vì vậy nên cũng không mấy ai quan tâm đến
cột mốc ở thác Bản Giốc.
Điều kỳ lạ là không biết dựa vào bằng chứng nào, ông Lê Công Phụng lại công nhận cột mốc đã được cắm ở đó từ đời nhà Thanh:
VASC Orient: Tức là cột mốc đang tồn tại đã được cắm từ thời Thanh?
Ông LCP: Đúng vậy. Cột mốc đang tồn tại đã được cắm
từ thời Thanh, xác định chỉ có chưa được một nửa thác Bản Giốc là ở bên
phía ta. Theo quy định quốc tế, khi phân giới cắm mốc thì thác được coi
như một dòng sông, một dòng suối. Đã là sông suối thì đường biên giới
đi qua luồng chính, tức là chỗ tàu thuyền đi lại được. Còn đối với sông
suối nơi tàu thuyền không đi lại được, thì đường biên giới phải đi theo
rãnh sâu nhất.
Hình 4: Thứ trưởng Ngoại Giao Việt Nam Vũ Dũng trả lời phỏng vấn
Tiến sĩ Nguyễn Hữu Hoạt – Tổng Biên Tập báo Dân Quyền (2009)
Vào năm 2009, ông Vũ Dũng – lúc đó là Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, đã
dành cho báo Dân Quyền ở Hoa Kỳ một cuộc trả lời phỏng vấn, qua đó ông
cho biết:
“Trước khi ký hiệp ước 1999, chúng tôi đã cử rất nhiều đoàn đi
khắp thế giới để tìm các hồ sơ liên quan đến Thác Bản Dốc, vào tất cả
các kho lưu trữ và tìm được một bản đồ tốt nhất về vị trí Thác Bản Dốc.
Căn cứ theo bản đồ, đường biên giới đi theo trung tuyến của sông Quây
Sơn (đúng như công ước Pháp – Thanh mô tả), khi đó, vẽ đường biên giới
đi ở nhánh phía bắc của cồn Pò Tho, có diện tích khoảng 2,7 ha. Ngay bản
đồ tốt nhất mà ta tìm được, thác này vẫn là thác chung. Tôi xin khẳng
định ta không có bất kỳ tài liệu gì cho thấy thác Bản Dốc là của Việt
Nam. Nói về luật pháp quốc tế, sông này là sông chung, thác này không thể là thác riêng được, không thể có nước nào chấp nhận.” [6]
Tại sao phải cử nhiều đoàn đi khắp thế giới để tìm kiếm trong khi
ngay tại Việt Nam đã có những bản đồ 1/50000 rất chính xác? Nhưng “tấm
bản đồ tốt nhất” mà ông Vũ Dũng nói là bản đồ nào? Phải chăng đó chính
là tấm bản đồ đã được công bố trong một bài báo đăng trên tờ Diễn đàn vào năm 2003? [7] Theo trình bày của ông Nguyễn Ngọc Giao, đây là bản đồ được tìm thấy tại Vụ lưu trữ Bộ Ngoại giao Pháp:
Hình 5: Bản đồ tìm thấy tại Vụ lưu trữ Bộ ngoại giao Pháp
Nhìn bản đồ này, chúng ta thấy có nhiều nhược điểm: thể hiện không
chính xác khu vực xung quanh thác, không có vòng cao độ, không có tọa độ
địa lý, không xác định được mặt cắt của thác ba tầng, v.v… Nhưng đường
biên giới vẽ trên bản đồ này vẫn cho thấy toàn bộ khu vực thác (hình
trái xoan hơi giống quả trứng, trên có chữ chute) thuộc về lãnh thổ nước ta. Không có điều gì chứng tỏ “thác này vẫn là thác chung“. Nếu đặt bản đồ này bên cạnh bản đồ Trùng Khánh 6354-IV, nhờ có các vòng cao độ chúng ta có thể thấy rõ mặt cắt của thác nước nằm xiên góc theo hướng từ bắc – tây-bắc đến đông – đông-nam,
và đường biên giới chạy giữa dòng sông về phía hạ lưu thác không hề
động chạm gì đến mặt cắt của thác nước. Điều đó chứng tỏ toàn bộ thác
nước thuộc về Việt Nam (xem hình 6). Nói cách khác, nếu các nhà đàm phán
của Việt Nam có trong tay tấm bản đồ Trùng Khánh 6354-IV, thì họ
càng có thêm chứng cứ để chứng minh toàn bộ Thác Bản Giốc là thuộc về
lãnh thổ Việt Nam, và có thể xác định dễ dàng vị trí cũ của cột mốc 53.
Hình 6: So sánh bản đồ tại Bộ Ngoại giao Pháp và bản đồ Trùng Khánh6354-IV
Bây giờ ta thử đặt bản đồ Trùng Khánh 6354-IV bên cạnh tấm bản đồ do
Trung Quốc cung cấp [8] (xem hình 7). Chúng ta sẽ thấy rõ: vạch răng
cưa trên bản đồ thể hiện mặt cắt của thác nước gần như thẳng đứng theo
hướng bắc-nam – khác hẳn thực tế. Hơn nữa, cột mốc 53 đáng lẽ nằm gần
đầu mút phía bắc của vạch răng cưa đã bị dời đi một khoảng khá xa đến
một vị trí đối diện với cồn Pò Thoong. Chính vì lẽ đó, đường biên giới
đáng lẽ phân chia dòng Quây Sơn ở phía hạ lưu của thác nay lại cắt ngang
cồn Pò Thoong và chia đôi phần thác chính cho phía Trung Quốc. Nói cách
khác, nếu có tấm bản đồ Trùng Khánh trong tay thì ông Lê Công Phụng
không thể xác định cột mốc 53 cắm ở vị trí đó “từ đời nhà Thanh” và ông
Vũ Dũng không thể chia Thác Bản Giốc cho phía Trung Quốc.
Hình 7: So sánh bản đồ do Trung Quốc cung cấp với bản đồ Trùng Khánh 6354-IV
Ví dụ minh họa trên đây cho thấy: hoặc các nhà ngoại giao Việt Nam
không hề biết đến các tờ bản đồ của QĐND, hoặc họ biết rõ (như lời ông
Trần Công Trục đã nói) nhưng lại không được phép dùng, buộc phải sử dụng các tài liệu do Trung Quốc cung cấp. Nhưng nếu không biết thì tại sao ông Trần Công Trục lại khẳng định là đã nghiên cứu kỹ ? Mà nếu đã biết rõ thì tại sao quý vị lại dễ dàng công nhận vị trí mới của cột mốc 53,
dẫn đến việc chia cồn Pò Thoong và Thác Bản Giốc? Chính những lời nói
mâu thuẫn của các nhà ngoại giao Việt Nam tham gia đàm phán về Thác Bản
Giốc đã bộc lộ sự lúng túng, bởi vì họ không dựa trên những tài liệu
chính xác có tính khách quan, khoa học.
3) Tại sao không được phép sử dụng những tài liệu pháp lý mà Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng có sẵn trong tay?
Tại sao phía Việt Nam không được quyền sử dụng những tài liệu mà tôi
đã nêu trên đây? Tại sao ông Trần Công Trục một mặt “không phủ nhận
những giá trị của các tài liệu chính thức của ta” nhưng lại cho rằng
chúng “chỉ có giá trị trong thời điểm đó và bối cảnh đó” và đi đến kết
luận “những tài liệu như vậy không thể mang đi đàm phán”? “Thời điểm đó”
và “bối cảnh đó” có gì khác với “thời điểm” cũng như “bối cảnh” sau này
– tức là từ thập niên 1990 cho đến khi hoàn thành việc cắm mốc vào đầu
năm 2009?
Theo tôi, để có thể hiểu được điểm tế nhị này, phải đọc kỹ cuốn VĐBG ¬– tức là “bị vong lục” của Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố năm 1979. Như
trên đã trích dẫn, vào năm 1977, phía Việt Nam đã đưa ra một dự thảo
hiệp định, trong đó điều 1 ghi rõ căn cứ đàm phán là các công ước Pháp
Thanh 1887 và 1895. Thế nhưng ngoài điều 1 còn có điều 2 như sau:
[Điều 2] “Hai bên cam kết tôn trọng đường biên giới quốc gia giữa
hai nước nói ở Điều 1. Những vùng đất nào do bên này quản lý vượt quá
đường biên giới nói ở Điều 1 thì nay trả lại cho bên kia.“ (VĐBG, tr.
23)
Phía Trung Quốc đã bác bỏ bản Dự thảo Hiệp định này. Bộ Ngoại giao Việt Nam viết tiếp như sau: “Phía
Trung Quốc đã từ chối xem xét bản dự thảo Hiệp định đó. Họ đưa ra một
đề nghị khác, thực chất là đề nghị cũ của họ được sửa đổi. Ý đồ của họ
là nhằm duy trì hiện trạng biên giới (không phải nguyên trạng đường biên
giới lịch sử) nhằm giữ những chỗ họ lấn chiếm và sửa lại nhiều chỗ có
lợi cho họ.” (VĐBG, tr. 26)
Như vậy, đàm phán vào cuối thập niên 1970 bị bế tắc là do chỗ Trung
Quốc muốn duy trì “hiện trạng biên giới” chứ “không phải nguyên trạng
đường biên giới lịch sử”. Nói cách khác, họ không chịu rút lui khỏi các
khu vực mà họ đã dùng vũ lực lấn chiếm. Mục đích của họ là “giữ những
chỗ họ lấn chiếm và sửa lại nhiều chỗ có lợi cho họ.”
Về sau, Trung Quốc còn tiếp tục đánh chiếm thêm một số địa điểm khác nữa, ví như cao điểm Núi Đất (1509) ở phía bắc tỉnh Hà Giang, mà phía Trung Quốc đã chiếm vào năm 1984 và đặt tên là Lão Sơn.
Nhà văn Phạm Viết Đào đã công bố điều này trên blog của ông và đã phỏng
vấn một số sĩ quan từng tham gia các trận đánh này. Rất tiếc là ngày
nay nhà văn đã bị bắt giam nên không thể tham gia “đối thoại” với ông
Trần Công Trục.
Dựa trên thực tế này, chúng ta có thể đặt câu hỏi: tại sao vào lúc
đó Trung Quốc khăng khăng không chịu đàm phán với phía Việt Nam mà mãi
đến thập niên 1990 mới thay đổi thái độ, đồng ý đàm phán và tiến hành
cắm mốc biên giới? Phải chăng phía Việt Nam đã chấp nhận đàm phán mà
không đòi hỏi phía Trung Quốc rút quân ra khỏi các vùng mà họ đã chiếm
đóng, nghĩa là chấp nhận đàm phán dựa trên “hiện trạng” thay vì dựa trên
“nguyên trạng đường biên giới lịch sử”?
Vào tháng 8 năm 2012, ông Nguyễn Trung – cựu đại sứ Việt Nam tại
Thái Lan, đã công bố bài viết “Phải chặn đứng nguy cơ tái diễn kịch bản
Thành Đô 1990” [9], trong đó có đoạn:
“Nhìn lại hơn 20 năm qua, điểm lại toàn bộ những việc trong quan
hệ hai nước đã làm được, từ đàm phán biên giới trên bộ và dưới biển,
phát triển quan hệ kinh tế, việc Trung Quốc trúng thầu hàng trăm công
trình kinh tế quốc gia quan trọng của Việt Nam, thuê đất, thuê rừng,
bô-xít Tây Nguyên, ti-tan ven biển miền Trung, những hoạt động tăng
cường quan hệ thực ra là nhằm tăng cường chi phối nhân sự nước ta, những
hoạt động tăng cường giao lưu.., tất cả đều chịu sự chi phối sâu sắc
của quyền lực mềm Trung Quốc.”
Việc các nhà ngoại giao Việt Nam không được phép sử dụng các tài
liệu pháp lý về Thác Bản Giốc có liên quan gì đến “sự chi phối sâu sắc
của quyền lực mềm Trung Quốc” mà ông Nguyễn Trung vừa nêu hay không?
Phải chăng Hội nghị cấp cao tại Thành Đô (tháng 9 năm 1990) – một hội
nghị cực kỳ bí mật trong đó các nhà lãnh đạo hai bên đàm phán chuyện gì
và cam kết điều gì cho đến nay vẫn chưa ai biết rõ, chính là khởi điểm
của sự thay đổi lập trường của phía Trung Quốc trong vấn đề biên giới
trên bộ? Và phải chăng sự thay đổi lập trường đó đồng nghĩa với việc
phía Việt Nam chịu từ bỏ điều 2 trong Dự thảo Hiệp định năm 1977, nghĩa
là không đòi hỏi Trung Quốc phải trả lại cho phía Việt Nam những vùng
đất “vượt quá đường biên giới nói ở Điều 1“?
Nếu những điều suy đoán trên đây là đúng sự thật thì trách nhiệm
chính không thuộc về các nhà ngoại giao Việt Nam – dù là tầm cỡ như các
ông Lê Công Phụng, Vũ Dũng hay Trần Công Trục. Nó thuộc về trách nhiệm
của một cơ quan quyền lực cao hơn –một cơ quan quyền lực không chịu sự
chi phối của bất cứ cơ quan quyền lực Nhà nước nào trên đất nước Việt
Nam, một cơ quan quyền lực có thể quyết định bất cứ điều gì và không bị
ai kiểm soát.
Ông Trần Công Trục viết: “Và về quy trình đàm phán, chúng tôi đã
có bài phân tích cụ thể trên Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam, trong đó nói
rõ đường biên giới chủ trương do nhóm chuyên gia thực hiện công phu và
nghiêm túc đã phải được các tỉnh có đường biên giới đi qua xác nhận, các
bộ ngành có liên quan xác nhận, trong đó có Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại
giao, được Quốc hội chấp thuận thông qua, chúng tôi mới đem đi đàm
phán.”
Tôi hoài nghi ý kiến này, nhất là về vai trò của Quốc hội. Không
biết khi nói “Quốc hội chấp thuận thông qua”, ông Trục muốn nói đến “Ủy
ban Thường vụ Quốc hội”, “Đảng đoàn tại Quốc hội” hay “toàn thể Quốc
hội”? Nếu quả thật Hiệp định biên giới năm 1999 đã được toàn thể Quốc hội
chính thức thông qua thì xin ông vui lòng cho biết phiên họp đó diễn ra
lúc nào, nội dung thảo luận ra sao và khi biểu quyết, đã có bao nhiêu
đại biểu tán thành, bao nhiêu phản đối, bao nhiêu bỏ phiếu trắng (kèm
theo danh tính của các đại biểu đã biểu quyết từng loại phiếu).
Biên bản của phiên họp đó chắc chắn sẽ là một tài liệu vô cùng quý
giá để các thế hệ sau này tham khảo khi cần xác định công, tội của từng
vị đại biểu trước lịch sử và trước nhân dân Việt Nam. Nhưng riêng tôi,
tôi không tin rằng đã có một phiên họp như thế.
Đà Lạt, 15/9/2013
MAI THÁI LĨNH
______________________
[1] “Ts Trần Công Trục trả lời ông Mai Thái Lĩnh về thác Bản Giốc“, Giáo dục Việt Nam, Thứ ba 10/09/2013:
[2] Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, Nxb Sự Thật, Hà Nội 1979
[3] Tên đầy đủ là “Dự thảo Hiệp định về đường biên giới quốc gia trên
bộ giữa Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Nước Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa, VĐBG, sđd, tr. 21-26.
[4] VĐBG, sđd, tr. 8.
[5] Có thể xem nguyên văn bài phỏng vấn Thứ trưởng Ngoại giao Lê Công Phụng công bố trên VASC – Orient 2-2-2002 được lưu giữ tại địa chỉ:
[6] Tiến sĩ Nguyễn Hữu Hoạt – Tổng biên tập báo Dân Quyền phỏng vấn Thứ trưởng Ngoại Giao Vũ Dũng, Dân Quyền 13-3-2009:
Tôi ghi nguyên văn, kể cả những lỗi chính tả (vd: Bản Dốc, Pò Tho, v.v…)
[7] Nguyễn Ngọc Giao, “Từ Nam Quan đến Bản Giốc”, Diễn Đàn số 129 tháng 5/2003.
[8] Bản đồ này cũng do báo Diễn đàn công bố trong bài báo nói trên.
[9] “Phải chặn đứng nguy cơ tái diễn kịch bản Thành Đô 1990”, Bauxite Vietnam 13/8/2013:
Nguồn: Ba Sàm
Không ai có quyền làm mất đất của tổ tiên. Những ai đã làm mất đi một tấc đất của tổ quốc-kẻ đó là kẻ tội đồ của dân tộc !
Trả lờiXóaÔ. Trần Công Trục hay ô. trần trùng trục ? Ô. ytrần trùng trục nên ông chẳng có cái túi nào mà đeo theo bản đồ . Ông đi đàm phán mà chờ đối phương cung cấp vũ khí để nói chuyện với họ .
Trả lờiXóaTra lai dat cho Giang Son, Cha Ong to tien.
Trả lờiXóaThế là ban của ông Trần công Trục không dựa vào căn cứ Pháp lý không thể chối cãi mà VN có trong tay,mà dùng tài liệu do TQ đưa để đàm phán làm mất phần lớn thác Bản Giốc của tổ tiên để lại! Một điều hiển nhiên người VN nào cũng biết là thác Bản Giốc từng nằm sâu trong lãnh thổ VN vài km. Các ông đã nối giáo cho giặc làm mất 1 phần lãnh thổ của VN rồi! Nhân dân VN không tha thứ cho hành động này được!
Trả lờiXóaXin trân trọng cảm ơn tấm lòng đối với đất nước, núi sông bờ cõi mà tổ tiên, cha ông chúng ta đã vun đắp xây dựng giữ gìn của bác Mai Thái Lĩnh!
Trả lờiXóaĐược đọc những bài viết của bác càng thấy thêm giá trị từng thước đất mét sông, thêm yêu quê hương đất nước nhiều hơn. Những bài viết có tâm có tầm của bác chắc chắn sẽ làm những người đang nhân danh này kia phải lúng túng, quanh co vì những mờ ám đến khó hiểu về thực trạng mối quan hệ Việt Trung và những hệ luỵ mất đất mất biển "có tội với tiền nhân", có tội với đất nước là KHÔNg THỂ THA THỨ.
Kính chúc bác Mai Thái Lĩnh sức khoẻ, dẻo dai, minh mẫn, sáng suốt để tiếp tục "cuộc chiến" với mớ lí luận định hướng kiểu Trần Công Trục với quán triệt toàn diện... hại nước hại non (?!)
Rất mong được đọc và trân trọng những bài phản biện mới của bác!
Trần công trục hay Trần ích tắc? Có phải là hậu duệ của Trần ích tắc không? Hồn thiêng nước Việt sẽ trừng trị kẻ nào cam tâm bán rẻ đất đai của tổ tiên,
Trả lờiXóa