Nhân vụ Tiên Lãng,
nhìn lại bộ máy quản lý làng xã xưa và nay
Lời dẫn của Nguyễn Xuân Diện: Nhân vụ Tiên Lãng, PGS. TS Bùi Xuân Đính đã tới thăm Nguyễn Xuân Diện và trao đổi nhiều về vấn đề quản lý làng xã xưa và nay, mà ông là một chuyên gia. Bùi Xuân Đính là một trong những người được trực tiếp thụ giáo cố Giáo sư Từ Chi – nhà dân tộc học danh tiếng. Năm 1985, Bùi Xuân Đính xuất bản cuốn sách đầu tay: Lệ làng phép nước tại Nxb. Pháp lý, để rồi ngay từ đó, cuốn sách được quan tâm tìm đọc và trích dẫn với tần số cao cả ở trong và ngoài nước.
Bùi Xuân Đính hiện công tác tại Viện Dân tộc học (thuộc Viện KHXH Việt Nam).
Nhân dịp này, NXD-Blog trân trọng giới thiệu một bài viết của ông, ở dưới đây.
Bùi Xuân Đính
Cho đến nay, trong nghiên cứu về làng
xã người Việt thời phong kiến, có một vấn đề chưa được quan tâm đúng mức. Đó là
hiện tượng “tha hóa quyền lực” của bộ máy quản lý, thường gọi là “nạn hào cường
làng xã”.
Nghiên cứu vấn đề nguồn gốc, bản chất
và biểu hiện của nạn cường hào, tức sự thoái hóa biến chất của bộ máy quản lý
làng xã cùng những biện pháp hạn chế, ngăn ngừa của Nhà nước phong kiến đối với
tệ nạn ấy không chỉ nhằm làm rõ hơn đặc điểm làng xã, cung cách quản lý nông
thôn của cha ông ta xưa kia; mà còn rút ra những bài học kinh nghiệm lịch sử
cho việc nâng cao năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ cấp xã, xây dựng chính
quyền cơ sở vững mạnh, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn hiện nay.
Về mặt khái niệm, từ “cường hào” cũng như
nhiều từ khác ở điểm khởi nguyên không mang một ý nghĩa tiêu cực như ngày nay.
Nó dùng để chỉ những hào trưởng (hào) mạnh (cường), có thế lực
chính trị, kinh tế, quân sự ở một vùng. Lịch sử Việt Nam từng ghi nhận, thế kỷ
X có nhiều hào trưởng mạnh, cai quản một vùng rộng lớn, như Khúc Thừa Dụ, Ngô
Quyền, Dương Đình Nghệ v. v… Mười hai sứ quân cũng là 12 hào trưởng mạnh cát cứ
ở các địa phương. Lê Lợi trước khi phất cờ khởi nghĩa chống quân xâm lược Minh
cũng là một hào trưởng mạnh. Song, không rõ
từ bao giờ, từ “cường hào” đã được hiểu theo một nghĩa khác, chỉ một lớp người
có quyền chức nhưng đã “tha hóa quyền lực”, lợi dụng chức quyền để vun vén cá
nhân, áp bức những người không có quyền chức hoặc những người đối lập. ở một
góc độ hẹp hơn, “cường hào” là những người có quyền chức ở làng xã, nhân danh
quyền lực làng xã để áp bức, bóc lột nông dân trong từng lũy tre xanh.
I. NGUYÊN NHÂN XUẤT HIỆN CỦA “CƯỜNG HÀO LÀNG XÔ
Nhiều người đã biết, làng Việt là nơi sinh sống và làm ăn chính của người nông dân, lấy trồng trọt lúa nước tự cấp tự túc làm đầu. Số làng có nghề thủ công hoặc chuyên buôn bán để phạm vi làm ăn của cư dân vượt ra khỏi làng quê mình không nhiều. Chỉ riêng về mặt kinh tế, làng đã tạo ra thế đóng kín với đa số người nông dân trong khung tụ cư của họ.
Nhiều người đã biết, làng Việt là nơi sinh sống và làm ăn chính của người nông dân, lấy trồng trọt lúa nước tự cấp tự túc làm đầu. Số làng có nghề thủ công hoặc chuyên buôn bán để phạm vi làm ăn của cư dân vượt ra khỏi làng quê mình không nhiều. Chỉ riêng về mặt kinh tế, làng đã tạo ra thế đóng kín với đa số người nông dân trong khung tụ cư của họ.
Về mặt xã hội, mỗi làng Việt ở Bắc Bộ (1) là một cộng đồng tự hoàn chỉnh, tự
đủ tự sinh về hầu hết các mặt của đời sống. Từng làng dù thuộc loại hình
kinh tế, môi trường cảnh quan nào cũng đều có một cơ cấu tổ chức riêng theo một
khuôn mẫu chung, tức gồm các thiết chế tổ chức theo các nguyên tắc tập hợp
người : theo địa vực cư trú (xóm ngõ), theo quan hệ huyết thống (dòng
họ), theo lớp tuổi kết hợp với quan hệ huyết thống và địa vực (giáp),
theo nghề nghiệp hoặc sở nguyện, chí hướng (các phường, hội, phe...) cùng
một hội đồng quản lý làng (kỳ mục) (2). Làng
có lệ tục riêng về cưới xin, tang ma, khao vọng. Làng có đình chùa riêng, thờ
thành hoàng riêng, với những quy định tổ chức lễ hội riêng. Tất cả những vấn đề
đó được cụ thể hoá bằng hương ước hay lệ làng. Hương ước ràng buộc từng tổ chức
và cá nhân vào đời sống cộng đồng bằng các quy định về các nghĩa vụ phải gánh
vác, những việc được làm hay bị cấm đoán. Xã hội làng Việt xưa được quản lý
trước hết và chủ yếu bằng lệ và hương ước. Xã hội làng còn quản lý bằng sự
kết hợp với pháp luật, những quan niệm về đạo đức thông qua sức ép dư luận, bằng
đời sống tâm linh thông qua những quan niệm về sự che chở, phù hộ hay trách
phạt của thành hoàng làng. Đó là kiểu quản lý rất chặt và có hiệu quả
(3).
Các đặc điểm trên đây của làng diễn ra
và tồn tại suốt trong lịch sử trung đại và cận đại Việt Nam. Trong thời gian
dài dặc hơn 9 thế kỷ ấy, dù xã hội Việt Nam có biến thiên như thế nào, dù Nhà
nước phong kiến sắp xếp làng vào loại xã nào theo kiểu “nhất xã, nhất thôn”
(mỗi xã chỉ gồm một làng) hay “nhất xã nhị thôn, tam thôn” (mỗi xã gồm 2 - 3
làng), thì làng vẫn tồn tại với tính cách là đơn vị cộng cư của những người
trồng lúa nước theo kiểu tự cấp tự túc, có địa vực, cơ cấu tổ chức riêng, lệ
tục, thậm chí cả “thổ ngữ” (tiếng làng) riêng, tâm lý tính cách riêng. Có lúc làng
xóm bị phiêu tán vì chiến tranh, loạn lạc hoặc mất mùa đói kém thì chỉ sau một
thời gian lại được tái lập với khung tổ chức, phong tục tập quán như cũ. Khi
dân đông phải chia làng thì làng được lập mới cũng theo mô thức của làng cũ. Hiện
tượng tái lập làng tiểu nông theo phương thức “đa nguyên” và chặt
về cơ cấu tổ chức và lệ tục là một “hằng số” của làng Việt và chế
độ phong kiến Việt Nam (1).
Với những đặc điểm trên đây, làng là
môi trường sống và hoạt động chủ yếu của người nông dân từ thưở ấu thơ cho tới
khi từ giã cõi đời, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Con người phải gắn chặt
vào làng và phải “hòa tan” trong cộng đồng làng, không phát
huy được năng lực cá nhân. Từng người không thể dễ dàng bỏ làng đến các nơi
khác để sinh sống vì các làng Việt thường có thái độ rất ngặt nghèo với dân
“ngụ cư”, buộc họ phải đứng ngoài các sinh hoạt cộng đồng của làng quê mà họ cư
ngụ. Khá nhiều trường hợp, người nông dân phải phiêu bạt đi các nơi khác kiếm
ăn, trở nên giàu có, thay đổi được thân phận kinh tế, nhưng không hẳn thay
đổi được thân phận chính trị - xã hội.
Tóm lại, bằng các thiết chế tổ chức,
bằng hương ước, pháp luật và các quan niệm cộng đồng về đạo đức và tín ngưỡng,
làng Việt là thiết chế quản lý rất chặt, làm cho mỗi người nông dân hầu như
chỉ có thể sống và thi thố trong làng mình, khi đã được coi là thành viên
của làng thì phải “ăn chịu đóng góp” với làng, tuân thủ các lệ tục của làng.
Làng không bảo vệ con người với tư cách là công dân của một đất nước.
Mọi suy nghĩ, hành động hay mọi biểu hiện của cá nhân, cá tính - dù hợp pháp
nhưng không đồng nhất với lợi ích của làng, với lệ làng và “thói làng” đều khó
được, thậm chí không được chấp nhận, có khi còn bị coi là “chống làng”. Sự quản
lý chặt chẽ và sự áp đặt ngặt nghèo đến mức có thể coi là “chuyên chế” đó của
làng là cơ sở nảy sinh sự tha hóa quyền lực của bộ máy quản lý làng, tức hội
đồng kỳ mục mà đại diện cao nhất là các tiên, thứ chỉ. Sự tha hoá đó đến mức
trầm trọng gọi là nạn cường hào. Như vậy, xuất phát điểm, danh từ “cường
hào” chỉ các kỳ mục trong làng.
Làng người Việt còn được Nhà nước
phong kiến lắp ghép vào đơn vị hành chính cơ sở (xã) theo kiểu “nhất xã nhất
thôn” (xã chỉ gồm một làng) hay “nhất xã nhị thôn” hoặc “nhất xã tam thôn” (xã
gồm hai hoặc bs làng)... Căn cứ vào các nguồn sử liệu thì quá trình lệ thuộc
vào Nhà nước phong kiến của các đơn vị tụ cư của người nông dân Việt bắt đầu
diễn ra mạnh mẽ dưới triều Trần (1225 - 1400). Sang thời Lê sơ (1428 - 1527),
các chính sách của Nhà nước trung ương tập quyền đã đẩy nhanh quá trình phong
kiến hoá của các làng với hai sự kiện đáng lưu ý:
Một là, với việc đổi chức xã quan thành xã
trưởng và định lại tiêu chuẩn của các chức viên trong bộ máy đó, Nhà nước quân
chủ đã tạo ra trong mỗi làng Việt, một tầng lớp tập trung nhiều quyền lực về
chính trị và pháp luật (bắt phu, bắt lính, đốc thuế, xử lý những vụ kiện nhỏ
trong làng...).
Hai là, với việc tăng cường ảnh hưởng của Nho
giáo - hệ tư tưởng chính thống, Nhà nước đã tạo ra trong mỗi làng một tầng lớp
nho sĩ (đỗ đạt hoặc không đỗ đạt) ngày càng đông đảo, là “ngọn cờ” hướng các
thành viên trong làng sống theo khuôn mẫu của Nho giáo. Cùng với đó, tầng lớp
quan lại phong kiến (những nho sĩ đỗ đạt, những người có phẩm hàm, chức tước) trong
làng cũng đông dần, được ưu đãi một số quyền lợi như miễn giảm thuế, tạp dịch
và đặc biệt dù đi làm quan vẫn có địa vị ưu tiên trong các sinh hoạt của làng.
Những người này sau khi về hưu trở thành những nhân vật quan trọng trong hội
đồng kỳ mục. Nhìn chung, cho tới giữa thế kỷ XVI, các quan hệ phong kiến ngày
càng chi phối mạnh mẽ đời sống làng mạc. Làng về cơ bản đã bị suy giảm nghiêm
trọng quyền tự trị của mình, biểu hiện bằng việc Nhà nước ngăn cản về kiểm soát
việc soạn thảo hương ước (1).
Song, cấp xã từ khởi đầu thời phong
kiến tự chủ cho đến khi Cách mạng Tháng Tám 1945 nổ ra luôn chỉ là công cụ
để Nhà nước phong kiến nắm chặt làng, kiểm soát được nông dân nhằm bảo đảm sự “bình
lặng“ giữa làng và Nhà nước và bảo đảm được các nguồn thu về sưu thuế,
binh dịch. Nhà nước phong kiến không dùng cấp xã và pháp luật để bảo vệ
từng con người sống trong những lũy tre xanh đó với tư cách là những công dân
của một đất nước mà chỉ coi họ là “thần dân” của vua. Đây
chính là kẽ hở để các chức dịch mà đại diện là lý trưởng, phó lý lạm dụng quyền
hành, thao túng các công việc trong làng xã.
Quá trình phong
kiến hoá các đơn vị tụ cư của người nông dân còn biểu hiện ở sự phong kiến hóa
lệ làng (thể hiện ở hương ước). Điểm “kết tinh” quyền lực của làng, tức là
quyền xét xử các vụ vi phạm lệ làng thuộc bộ máy phong kiến cấp xã (chức dịch),
chứ không phải thuộc bộ máy quản lý làng (kỳ mục). Đấy cũng là cơ sở và điều
kiện để các chức dịch lũng đoạn quyền lực ở làng, dẫn đến nạn hào cường.
Như vậy, những trình bày trên cho
thấy, trong mỗi làng Việt cổ truyền, từng thành viên phải chịu sự quản lý của
hai thiết chế tổ chức quyền lực: hội đồng kỳ mục và bộ máy chính quyền Nhà nước
cấp xã, thông qua “cơ sở pháp lý” là hương ước kết hợp với pháp luật, dư luận,
nhằm ràng buộc các thành viên trong những nghĩa vụ và trách nhiệm nặng nề hơn
là quyền lợi. Với hai bộ máy trên và với hương ước cùng pháp luật, thiết chế
làng xã đã biến từng luỹ tre xanh của người nông dân thành “pháo đài”
tự trị, tự quản tương đối đóng kín; tạo ra một uy quyền tuyệt đối đối của làng
với các thành viên, thể hiện ở việc các thành viên không tự tiện “vượt
làng” đi kiện cáo lên quan trên mà hương ước của đại đa số các làng đã “chính
thức hóa”. Sự mất dân chủ hay chỉ có “dân chủ đẳng cấp”, dân chủ hình thức,
hoặc “dân chủ giả vờ”, pháp luật kém hiệu lực ở từng làng đã tạo ra sự ràng buộc
ngặt nghèo đối với người nông dân, làm cho họ và các thế hệ cháu con bao đời
nay là những “công dân bắt buộc” của một xã hội “tiểu triều đình”.
Một điều đáng lưu ý là phần lớn các
xã xưa kia chỉ gồm một làng (1).
Cách quản lý nông thôn của Nhà nước phong kiến chỉ dừng lại ở xã - cũng chính
là ở làng, chứ không trực tiếp tới hộ nông dân hay tới từng cá nhân. Nói một
cách khác, Nhà nước phải thông qua làng xã mới tới dân đinh và gia đình; ngược
lại các dân đinh, gia đình phải qua “cầu nối” làng xã mới tới được Nhà nước.
Mọi chính sách của Nhà nước phải thông qua làng mới đến được dân và mọi nghĩa
vụ của dân đối với Nhà nước được tập hợp và “cố định” lại trong nghĩa vụ chung
của làng. Đó là sự “khoán trắng” của Nhà nước cho làng, nói đúng ra là khoán
trắng cho những người đứng đầu làng mọi thứ nghĩa vụ mà dân làng phải gánh
chịu. Đó là cách quản lý thông qua những người đại diện cho làng và dựa trên
luật liên đới chịu trách nhiệm (một người phạm luật thì cả họ, thậm chí cả làng
phải liên quan). Cách quản lý đó đã đẩy người đứng đầu làng xã trở thành người
có quyền hành rất lớn nhưng lại không phải chịu đầy đủ trách nhiệm cá nhân của
mình. Đó là kẽ hở để họ có thể nhân danh Nhà nước, hoặc nhân danh làng xã vì
những mục đích và lợi ích cá nhân. Họ vừa dùng luật nước vừa dùng lệ làng để
quản lý làng xã (1).
Đến đây, một câu hỏi khác được đặt ra
: cường hào xuất hiện khi Nhà nước mạnh hay khi bị suy yếu ? Có nhà
nghiên cứu cho rằng, cường hào chỉ xuất hiện khi Nhà nước Trung ương bị suy
yếu, không kiểm soát được làng. Tuy nhiên, đọc lại chính sử cho thấy một điều
khá thú vị. Đó là, danh từ “cường hào” xuất hiện đầu tiên trong Đại Việt sử
ký toàn thư, hai lần vào niên hiệu Hồng Đức (1470 - 1497), thời Vua Lê
Thánh Tông trị vì (1460 - 1497) - triều vua được coi là “thái bình, thịnh trị”,
thậm chí là “cực thịnh” của chế độ phong kiến Đại Việt.
- Lần thứ nhất, vào tháng Một năm
Hồng Đức thứ hai (1471), Lê Thánh Tông đã ra sắc dụ cho các quan thừa
tuyên, phủ huyện ở xứ Sơn Nam, trong 100 ngày phải “mau mau đi xem xét những
nơi nào nơi nào núi chằm bờ
biển trong hạt chỗ nào hình thế có thể khơi đắp ngòi cừ đê đập để làm ruộng,
chỗ nào có hùm sói làm hại, cường hào thao túng, phong tục kiêu bạc, dân
sinh đau khổ…phải lần lượt tâu trình cẩn thận…” (2).
- Lần thứ hai, 14 năm sau (ngày 14 tháng Một
năm Ất Tỵ, niên hiệu Hồng Đức, 1485), Lê Thánh Tông lại “nhắc lại lệnh
về hào cường hoành hành … Hễ là hào cường cậy thế mà phạm các tội
đánh người bị thương, cướp đoạt ruộng đất, tài vật của người khác, cày phá mồ
mả, xâm phạm làm tổn hại đến người khác, từ 3 lần trở lên, rõ là hành vi ngang
ngược của bọn cường hào mà dẫu có ân xá cũng không được hưởng, thì bị trừng trị
theo tội hào cường hoành hành” (1).
Như vậy, qua hai ví dụ trên cho thấy, nạn
cường hào xuất hiện cả khi chính quyền trung ương vững mạnh, nhưng vì quan
liêu, thiếu sâu sát, có nhiều kẽ hở trong quản lý nên để những kẻ thoái hoá,
biến chất trong bộ máy quản lý (kỳ mục, chức dịch) lợi dụng, lộng hành.
Vậy, thành phần cụ thể của cường hào
là gì? Như đã
trình bày, cường hào trước hết là những phần tử thoái hoá biến chất trong hội
đồng kỳ mục và bộ máy chức dịch, song đa phần thuộc về chức dịch, bởi tính chất
phong kiến hoá khá triệt để của làng xã. ở đây cần nói thêm là, về danh nghĩa,
các chức dịch phải phụ thuộc vào hội đồng kỳ mục, có một vị trí tương đối thấp
trong các sinh hoạt xã hội của làng ở chốn đình trung, thể hiện qua chỗ ngồi
của họ. Nhưng trong thực tế, khi bàn và quyết các công việc của làng, tiên thứ
chỉ thường giữ thái độ “đảm hòa” để các thành viên khác của hội đồng kỳ mục,
thường là những người “có mồm, có mép” đấu khẩu nhau “dây cà ra dây muống”; các
cụ thì “xuất lão” nên “vô sự”, có chăng khi được hỏi ý kiến thì cũng chỉ gật
đầu hoặc nói dăm câu ba điều cho “qua chuyện”; còn dân “bạch đinh” chỉ biết
“dựa cột đình” nghe “các cụ chiếu trên” phán bảo, có nói năng gì cũng phải
“thưa gửi” cho “phải phép”. Như vậy, quyền lực tập thể ở đây bị phân tán và
giảm sút.
Trong tình thế đó, nổi lên vai trò của
các chức dịch. Họ - như một công trình nghiên cứu của Nguyễn Đức Nghinh đã chỉ
rõ, thuộc tầng lớp trung gian trong làng, có sở hữu nhỏ, ở những làng có nhiều
ruộng đất công thì họ không có hoặc có rất ít ruộng đất (1),
song lại là người chịu trách nhiệm trước Nhà nước phong kiến bên trên về các
nghĩa vụ sưu thuế, binh dịch và an ninh trong làng; đồng thời cũng được làng
giao quyền giải quyết một số công việc của đời sống cộng đồng mà hương ước đã
thể chế hóa. Để thực thi được nhiệm vụ của mình, trong bối cảnh của xã hội làng
mạc tiểu nông chồng chất những mâu thuẫn phe phái, họ phải tạo ra cho mình một
uy quyền tuyệt đối, vượt cả khung quyền hạn được phép, mà trước hết là nắm lấy hiệu lực thực tế và cuối cùng
của quyền lực làng xã, tức là trực tiếp xét xử các vụ vi phạm hương ước, lệ
làng. Từ chỗ là kẻ đại diện cho làng xã, các chức dịch đã “tha hóa quyền lực”,
đứng trên làng xã, lấn át và đứng trên cả hội đồng kỳ mục. Sự tha hóa quyền lực
đã biến họ thành tầng lớp hào cường thôn xã.
Tuy nhiên, cường hào làng xã không chỉ
gồm những người thoái hóa, biến chất trong kỳ mục và chức dịch. Cùng với họ hay
đứng đằng sau họ còn là những địa chủ có thế lực kinh tế, thể hiện ở mức độ sử
hữu ruộng đất- lớn hay nhỏ tuỳ thuộc vào đặc điểm từng vùng. Không thoả mãn với
sự giàu có đã đạt được, những địa chủ này luôn tìm mọi cách để có thêm ruộng đất,
bằng cách chiếm ruộng đất công của làng, cướp đoạt, mua rẻ ruộng đất của nông
dân. Một trong những đặc điểm nổi bật của xã hội Việt Nam thời phong kiến nói
chung và làng xã nói riêng là không có một tầng lớp nào nắm được quyền lực nhờ
kinh tế mà muốn có được nó phải thông qua hay dựa vào quyền lực chính trị Vì
thế, trong làng xã thời phong kiến luôn diễn ra một hiện tượng : các “địa
chủ” phải nhờ tới và tạo ra một uy thế về chính trị trong làng để củng
cố và nâng cao thế lực kinh tế; đồng thời thông qua sức mạnh kinh tế và tập
quán để kéo những người đứng đầu làng xã về phía mình. Ngược lại, một số người
đứng đầu làng xã phải dựa vào thế lực kinh tế của các “địa chủ” để xác lập và
duy trì thế đứng chính trị. Sự câu kết giữa hai nhóm người đó đã tạo ra một
“tập đoàn” kinh tế - chính trị có uy quyền gần như tuyệt đối trong đời sống
làng xã. Trong nhiều trường hợp, cả hai phía có quan hệ thân tộc. Mối dây liên
hệ huyết thống và “tính trội về mặt sinh học - xã hội” đã được họ lợi
dụng triệt để, nhằm đạt được những mưu đồ, mục đích của dòng họ. Người giàu có
trong họ bỏ tiền (hoặc ruộng bằng cách cho “mượn chân điền” (1)
để người cùng họ “nhảy” vào diện trường chính trị và ngược lại, những kẻ có
chức quyền nhân danh Nhà nước và làng xã “bảo kê” và nâng đỡ cho anh em, họ
hàng để củng cố thế lực kinh tế. Sự liên kết hay câu kết đó tạo ra cho họ đủ
điều kiện để lũng đoạn làng xã, biến họ thành tầng lớp hào cường. Cho nên,
không có gì khó hiểu khi phần đông cường hào là từ các dòng họ đông, có thế lực
nhất trong làng mà ra.
Như vậy, thực chất của tầng lớp
cường hào là những phần tử thoái hóa biến chất trong bộ máy quản lý làng xã câu
kết với một vài địa chủ đầu sỏ để thành một tầng lớp có uy thế chính trị và
kinh tế, lũng loạn toàn bộ đời sống làng xã. Họ, một mặt khai thác triệt để
những yếu tố thiếu chặt chẽ, những kẽ hở của luật pháp và chính sách Nhà nước
đối với làng xã; mặt khác, lợi dụng sự phức tạp, tính rối rắm của cơ cấu tổ
chức và những phiền phức của phong tục tập quán để củng cố quyền lực và chính
quyền lực đó đã biến họ thành những kẻ tha hóa.
II. NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA CƯỜNG HÀO LÀNG
XÃ
Rất tiếc, chính sử nước nhà ghi lại quá ít tư liệu về “tệ nạn” này qua các triều đại. Song ít nhất, qua hai đạo dụ ban bố vào năm Hồng Đức thứ hai (1471) và Hồng Đức thứ 16 (1485) thời Lê Thánh Tông nêu trên cũng có thể thấy được những hành vi của tầng lớp cường hào làng xã. Đó là:
Rất tiếc, chính sử nước nhà ghi lại quá ít tư liệu về “tệ nạn” này qua các triều đại. Song ít nhất, qua hai đạo dụ ban bố vào năm Hồng Đức thứ hai (1471) và Hồng Đức thứ 16 (1485) thời Lê Thánh Tông nêu trên cũng có thể thấy được những hành vi của tầng lớp cường hào làng xã. Đó là:
- Lạm dụng quyền hành để cướp đoạt
ruộng đất, tài vật của người khác,
- Cậy quyền cậy thế đánh người bị
thương, cày phá mồ mả, xâm lấn người khác;
- Những hành động đó lặp đi lặp lại từ
ba lần trở lên.
Qua một số tư liệu khác có thể thấy,
cường hào là những kẻ lũng loạn công quỹ và chấp chiếm ruộng đất công. Dựa vào
quyền lực, họ lôi kéo anh em họ hàng để xoay sở, dọa dẫm, vu khống, ức hiếp
nông dân. Tình trạng này càng trở nên trầm trọng từ những năm 40 của thế kỷ
XVIII, khi Nhà nước phong kiến trung ương phải lo đối phó với phong trào khởi
nghĩa nông dân bùng lên mạnh mẽ, để mặc các làng xã “tự quản”, cũng là để mặc
cho cường hào hoành hành. Sách Lịch triều tạp kỷ chỉ rõ: “Bọn cường hào
giảo quyệt ở trong hương đảng, gian giảo, nhiều mưu mẹo, biến báo dối trá trăm
khoanh, cho việc võ đoán là đắc sách, lấy sự thôn tính kẻ khác làm tự hào, lấn
lướt đè nén những người nghèo khổ, thế cô đơn, khinh lờn, bắt nạt những người
tối tăm, đần độn, hễ có điều gì không như ý thì chúng vu oan giá họa, lôi đến
cửa công. Một khi /quan trên/ phân xử tuy đã phải lẽ rồi, nhưng chúng vẫn chống
án không chịu. Chống đủ một lần, rồi ba bốn lần, làm cho người nghèo khó thế
cô, không đủ sức theo kiện và người có hằng sản thì hao tài tốn của, bấy giờ
chúng mới hả lòng... Chúng kéo bè đảng chỉ độ hai, ba người, nhưng mỗi việc thì
chúng lại tự xưng là “toàn xã”, rồi nối gót nhau kéo đến cửa công, lao mình vào
việc kiện tụng. Hễ cần đến ăn uống hay tiêu dùng thì chúng lại họp bổ dân đóng
tiền góp gạo, cầm cố quan điền, bỏ vào túi chúng, việc này qua rồi chúng lại
bày ra việc khác. Bề ngoài chúng làm ra lo tính gánh vác /việc công/, nhưng bề
trong chúng chỉ ngầm tính đến sự tiêu dùng hàng ngày của mình” (1).
Sang thời Nguyễn, chế độ chuyên chế
làm cho nạn cường hào càng trở nên khủng khiếp. Sách Lịch sử Việt Nam nhận
xét : “Bọn cường hào hầu như nắm quyền sinh sát trong tay” (2).
Sử nhà Nguyễn không ít lần nói lên tác hại của nạn cường hào. Riêng Đại Nam
thực lục chính biên đã có tới 107 lần chép về tệ nạn này. Trong Sớ gửi lên
triều đình vào tháng Chín năm Mậu Tý đời Vua Minh Mạng (1828), Nguyễn Công Trứ
đã nhận xét : “Cái nạn cường hào nó làm cho con cái người ta thành mồ côi, vợ người
ta thành góa bụa, giết cả tính mạng của người ta, làm kiệt cả gia tài của người
ta mà việc không lộ, cho nên cứ công nhiên, không kiêng sợ gì. Chỗ nào chúng
cũng cùng nhau anh chị, chuyên lợi làm giàu, dối cợt quan lại, để thỏa lòng
riêng. Có công điền công thổ thì thường thường chúng bày việc thuê mướn làm báo
mình, những người nghèo cũng không kêu vào đâu được”. Nguyễn Công Trứ còn so
sánh, “Cái hại quan lại là một, hai phần mười, cái nạn hào cường đến 8, 9 phần
10” (1).
Tình hình này tiếp diễn trong suốt thời Nguyễn và 80 năm thời Pháp thuộc, khi
thực dân Pháp chủ trương duy trì bộ máy xã thôn và lệ tục cổ truyền một thời
gian dài để cai trị nông thôn. Điều này có thể thấy rõ qua các tác phẩm Vấn
đề dân cày của Qua Ninh và Vân Đình, Việc làng và Tập án cái đình
của Ngô Tất Tố. Chính vì thế, năm 1921, để tuyên truyền và mong được sự ủng hộ
cho chủ trương “cải lương hương thôn” của mình, các nhà cai trị Pháp ở Bắc Kỳ
thông qua báo chí đã kêu gọi “phải hạn chế nạn cường hào hoành hành ở nông
thôn”.
III. BIỆN PHÁP CỦA NHÀ NƯỚC PHONG KIẾN
Nạn cường hào nông thôn là con đẻ của chế độ phong kiến, gây nhiều hậu quả, tệ hại không chỉ cho người nông dân mà chính Nhà nước cũng phải gánh chịu. Từ thời Vua Lê Thánh Tông đến thời Nguyễn, Nhà nước phong kiến ít nhiều đã có những biện pháp đối phó với tệ nạn đó.
Nạn cường hào nông thôn là con đẻ của chế độ phong kiến, gây nhiều hậu quả, tệ hại không chỉ cho người nông dân mà chính Nhà nước cũng phải gánh chịu. Từ thời Vua Lê Thánh Tông đến thời Nguyễn, Nhà nước phong kiến ít nhiều đã có những biện pháp đối phó với tệ nạn đó.
- Ngày 24 tháng Sáu năm Quý Mão, niên
hiệu Hồng Đức (1483), định lệnh giảm bớt xã trưởng dư số. Có lẽ vì số xã trưởng
trong một xã quá nhiều và nhưng hoạt động vân kém hiệu quả nên Lê Thánh Tông
chủ trương loại bớt họ để tránh sự kéo bè, lạm dụng quyền lực (2).
- Tháng Một năm Ất Tỵ, niên hiệu Hồng
Đức (1485), nhắc lại lệnh về hào cường hoành hành (như đã dẫn ở trên), định tội
mà trị. Rất tiếc là chính sử không ghi mức hình phạt cụ thể với tội này, song
chắc chắn, qua ghi chép ở đoạn sau, thì có phân biệt với tội đánh nhau, kiện
tụng đất đai bình thường. Qua từ “nhắc lại” có thể suy đoán Nhà nước phong kiến
đã có biện pháp đối phó từ trước đó.
- Tháng Chín năm Mậu Thân, niên hiệu
Hồng Đức (1488), xuống chiếu về việc đặt xã trưởng : hễ là anh em ruột, anh em
con chú con bác và bác cháu, cậu cháu với nhau thì chỉ có một người được làm xã
trưởng, không được cùng làm để trừ mối tệ bè phái hùa nhau (3).
Tám năm sau (tháng Tám, năm Bính Thìn, niên hiệu Hồng Đức, 1496), một chiếu chỉ
có nội dung tương tự : cấm cả những người là con cô con cậu, con dì con già và
những người có quan hệ thông gia cùng làm xã trưởng trong một xã; nếu đã cùng
làm rồi thì chọn người nào có thể làm được việc cho lưu lại, còn thì cho về làm
dân (1).
Biện pháp này nhằm ngăn chặn tệ lợi dụng quan hệ thân tộc, vây bè kéo cánh cả
về phía họ ngoại và thông gia trong việc nắm giữa các chức danh trong bộ máy
quản lý, thao túng làng xã.
- Tháng Tư năm Canh Tuất, niên hiệu
Hồng Đức (1490), định lệnh tách xã : khi xã nào có trên 500 hộ (2).
Về hình thức, việc làm này để “thêm rộng bản đồ”, song trên thực tế, đây là
biện pháp hạn chế tình trạng quản lý yếu kém của các chức dịch ở những làng
đông dân, dễ nảy sinh sự tha hóa quyền lực.
Như vậy, chúng ta thấy, Lê Thánh Tông
là ông vua chống cường hào khá kiên quyết.
Thời Lê - Trịnh, triều đình cũng đưa
ra một số biện pháp nhằm hạn chế nạn cường hào.
- Tháng Bảy năm Mậu Tuất, niên hiệu
Vĩnh Thịnh (1718), Ngự sử đài quy định một số điểm về kiện tụng, theo đó, “trị
tội thẳng, không hề dung khoan tha thứ” những kẻ gây ra nạn cường hào mà sách Lịch
triều tạp kỷ đã nêu.
- Tháng Chạp năm Ất Tỵ, niên hiệu Bảo
Thái (cuối năm 1725, đầu năm 1726), Tham tụng Nguyễn Công Hãng dâng sớ đề nghị
cho phép dân các địa phương yết bảng ở lỵ sở viết đầy đủ về điều thiện và điều
ác của quan địa phương, hoặc ca tụng hoặc chê bai. Đây là biện pháp lấy ý kiến
dân về đức hạnh của quan địa phương trong đó có các xã trưởng. Đề nghị này được
Chúa Trịnh Cương chấp nhận (3).
- Tháng Một, năm
sau (Bính Ngọ, 1726), chúa Trịnh định phép khảo công các xã trưởng (4).
Trước đó, từ năm Quý Mão cùng niên hiệu (1723), bắt đầu “sát hạch” các xã
trưởng : người nào siêng năng mẫn cán xứng đáng chức vụ đã qua hai lần sát hạch
thì quan trấn mục làm tờ khai tâu cử, đợi đến khi quan trên điều tra đúng sự
thật mới trao chức phẩm. Xã trưởng ba năm khảo công một lần bắt đầu từ đây (1).
Tuy nhiên, đến năm Nhâm Tý, niên hiệu
Vĩnh Khánh (1732), Trịnh Giang lại bãi bỏ chế độ khảo công các xã trưởng lại bị
và việc đặt xã trưởng không được coi trọng nữa. Sự bất lực của Nhà nước phong
kiến trong việc giám sát hoạt động của các xã trưởng, phó mặc cho các làng xã
tự quyết định lấy việc bầu ra người cai quản mình thực chất là sự “bỏ mặc” cho
cường hào hoành hành. Những câu thành ngữ “hương đảng tiểu triều đình”
hay “phép vua thua lệ làng”… phổ biến trong thời kỳ này xuất
phát từ thực tế đó. Cường hào càng được dịp hoành hành từ những đầu những năm
40 của thế kỷ XVIII trở đi, khi làn sóng khởi nghĩa nông dân dâng thành cao
trào, tiếp đó, cuộc nội chiến giữa các tập đoàn phong kiến lên đến đỉnh điểm,
Nhà nước phong kiến gần như “bỏ mặc” làng xã cho các chức dịch.
Lên ngôi vua, lập ra triều Nguyễn sau
khi đánh thắng nhà Tây Sơn, Gia Long mong muốn cải tổ bộ máy quản lý làng xã để
hạn chế nạn cường hào, khi làng xã đã trải qua hơn 30 năm nội chiến. Trong tờ Chiếu
về “Định điều lệ hương đảng của xã dân Bắc Hà” ban bố vào năm Giáp Tý
(1804) cùng một số chỉ dụ khác, Gia Long mong muốn và cố gắng chấn chỉnh guồng
máy hoạt động của làng xã (2).
Song chính ông cũng bất lực trước “sức ỳ” của thể chế làng xã cũ.
Minh Mạng - một trong số ít ông vua
giỏi việc hành chính nhất của Nhà nước phong kiến Việt Nam nhận thức rõ căn
nguyên và tác hại của nạn cường hào. Chính ông, vào năm Mậu Tý (1828) đã thừa
nhận : “Bọn cường hào ở Bắc Thành hiếp tróc dân làng khi bầu xã trưởng, đem
đồng đảng ra để tiện làm việc gian, hoặc giao cho người hèn nhát để tiện việc
sai khiến. Đến lúc gặp các việc quan, thuế khoá, binh đao thì tạ sự mà chia
nhau, lại con xúi giục bình dân ẩn giấu kẻ gian… Đến khi sinh kiện tụng, bọn
cường hào vẫn khôn ngoan mà thoát lưới pháp luật”. Đây là cơ sở để Minh Mạng đi
đến cuộc cải tổ lại bộ máy quản lý làng xã : bỏ chức xã trưởng, thay bằng lý
trưởng, mỗi xã chỉ có một người cùng 1- 2 phó lý tùy theo quy mô số đinh: xã có
trên 150 đinh thì 2 phó lý, xã có dưới 150 đinh thì cử 1 người. Minh Mạng cũng
quy định rõ, lý trưởng, phó lý phải là người “vật lực, cần cán, phải do dân
làng đồng tình bầu cử, phủ huyện xem kỹ lại rồi báo lên trên để cấp văn bằng,
“mộc triện”, làm việc được 3 năm xét ra giỏi giang thì tâu xin khen thưởng,
người nào hèn kém tham ô thì cách đi (1).
Song, quy định trên đây của Minh Mạng
vẫn mang tính chung chung, hình thức. Thêm nữa, khác với các thời kỳ trước, đến
lúc này, các chức dịch lại bị gạt ra khỏi hàng ngũ quan lại, không được ban hàm
thấp nhất (cửu phẩm), cho nên họ không chịu một sự ràng buộc về mặt quyền lợi
quan trường nào cả. Thực chất của quy định này vẫn là Nhà nước “khoán trắng”
làng xã cho các chức dịch (2).
Vì vậy, các chức dịch một mặt vẫn dễ bề nhân danh Nhà nước để ức hiếp dân
chúng, mặt khác lợi dụng làng xã để trì hoãn, lẩn tránh hoặc ẩn lậu các nghĩa
vụ với Nhà nước. Như vậy, cải cách của Minh Mạng đã không đẩy lùi được nạn
cường hào mà còn làm cho tệ nạn đó có điều kiện phát triển hơn (3).
Tình hình này được tiếp diễn sang các đời vua sau và suốt thời Pháp thuộc - khi
thực dân Pháp chủ trương duy trì, lợi dụng thiết chế làng xã để cai trị, đàn áp
bóc lột nhân dân ta.
IV. KẾT LUẬN
1. Sự tha hoá quyền lực trong làng xã với biểu hiện cao nhất là nạn cường hào là sản phẩm tất yếu của thiết chế tự trị, tự quản làng xã trong khuôn khổ của Nhà nước quân chủ quan liêu, cụ thể là sự “khoán trắng” của làng xã cho các chức dịch.
1. Sự tha hoá quyền lực trong làng xã với biểu hiện cao nhất là nạn cường hào là sản phẩm tất yếu của thiết chế tự trị, tự quản làng xã trong khuôn khổ của Nhà nước quân chủ quan liêu, cụ thể là sự “khoán trắng” của làng xã cho các chức dịch.
2. Thực chất của
tầng lớp cường hào là các chức dịch tha hoá biến chất câu kết với các địa chủ
có thế lực nhất ở nông thôn, lợi dụng sự lỏng lẻo hay những kẽ hở trong chính
sách quản lý làng xã của Nhà nước phong kiến để thao túng làng xã.
3. Nạn cường hào không chỉ gây tai hoạ
cho người nông dân mà còn cản trở, nhiều khi vô hiệu hoá việc nắm làng xã của
Nhà nước phong kiến, làm cho tình hình nông thôn không ổn định, nhiều khi diễn
biến phức tạp.
4. Ít ra là từ thời Lê Thánh Tông
(1460 - 1497), Nhà nước phong kiến đã có ý thức được hậu quả của tệ nạn cường
hào và đưa ra được những giải pháp nhằm hạn chế, khắc phục tệ nạn ấy, song
thiếu tính đồng bộ và cụ thể nên hiệu quả chưa cao.
5 .Từ thực tế của nạn cường hào làng xã thời phong
kiến cho thấy, việc định ra tiêu chuẩn, bảo đảm quyền lợi, quy định trách
nhiệm, quyền hạn của các chức viên trong bộ máy quản lý làng xã cũng như giám
sát các hoạt động của họ đi kèm với các biện pháp chế tài cụ thể thông qua các văn
bản pháp luật là rất cần thiết. Nói một cách khác là “quản lý bộ máy quản lý
làng xã’, tăng cường hiệu lực của pháp luật, mở rộng dân chủ ở nông thôn, giải
quyết tốt mối quan hệ giữa luật và tục, giữa hành chính và tự quản… có một vai
trò rất quan trọng trong việc hạn chế sự “tha hóa quyền lực” của các chức viên
trong bộ máy quản lý làng xã. Đây là những bài học kinh nghiệm của lịch sử
trong việc chống nạn cường hào mà chúng ta cần xem xét đối với việc đào tạo, sử
dụng đội ngũ cán bộ, nhất là người đứng đầu cấp xã, xây dựng hệ thống chính trị
ở cơ sở, phục vụ việc quản lý xã hội nông thôn hiện nay.
B.X.Đ
(*) Bài đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 11 / 2002, đăng lại trong sách “Nhà nước và pháp luật thời phong kiến ở Việt Nam, những suy ngẫm” – cùng tác giả, Nxb. Tư pháp, 2005.
.
(1) Phạm vi không gian của bài viết này chỉ giới hạn ở các làng Việt vùng trung du và châu thổ Bắc Bộ..
2) Trần Từ : Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1984.
(3) Bùi Xuân Đính : Hương ước và quản lý làng xã, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1998, tr. 114 - 116.
(1) Phan Đại Doãn - Làng xã Việt Nam, một số vấn đề kinh tế, xã hội và văn hóa, Nxb. KHXH, Hà Nội, 2000.
(1) Nguyễn Quang Ngọc, “Tổ chức quản lý làng xã, điều trăn trở của mọi thời đại”, trong Kinh nghiệm tổ chức quản lý nông thôn Việt Nam trong lịch sử, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 18.
(1) Bùi Xuân Đính, “Bàn thêm về mói quan hệ giữa làng và xã qua quy mô cấp xã thời phong kiến”, trong Nghiên cứu Việt Nam - một số vấn đề về kinh - tế - xã hội - văn hoá, Nxb. Thế Giới, Hà Nội, 1998, tr. 97 - 107. Cùng tác giả : “Quy mô cấp xã ở Bắc Ninh xưa và nay - những vấn đề đặt ra”, Tạp chí Dân tộc học, số 3/ 2000, tr. 63 - 69.
(1) Nguyễn Quang Ngọc : Tổ chức quản lý làng xã ….., bài đã dẫn, tr. 36- 37.
(2) Đại Việt sử ký Toàn thư, tập II, s®d, tr.
(1) Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, sđd, tr.498.
(1) Nguyễn Đức Nghinh. “Mấy vấn đề về tình hình sở hữu ruộng đất của một số thôn xã thuộc huyện Từ Liêm”, trong Nông thôn Việt Nam trong lịch sử, tập I, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1977, tr. 97 - 126.
(1) Đây là hiện tượng khá phổ biến ở khá nhiều làng Việt trên vùng trung du và châu thổ Bắc Bộ mà chúng tôi đã điều tra hồi cố: vào dịp bầu lý trưởng, phó lý và các chức viên khác của bộ máy chức dịch, một gia đình hoặc dòng họ bàn tính đưa một người có khả năng ra tranh chức này, song người này không đủ số ruộng theo tiêu chuẩn của người ra tranh cử (3 hoặc 5 mẫu tùy làng), nên trong họ phải “hùn” ruộng cho bằng cách lập một văn tự bán ruộng cho người đó. Dân gian thường gọi là ‘mượn chân điền”.
(1) Ngô Cao Lãng - Lịch triều tạp kỷ -Nxb. KHXH, Hà Nội, 1975, tập I, tr. 290 - 291. Đây là thông sức của Ngự sử đài vào tháng Bảy năm Mậu Tuất, niên hiệu Vĩnh Thịnh (1718).
(2)Lịch sử Việt Nam, tập I, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1971, tr. 373.
(1).Đại Nam thực lục chính biên, tập IX, Nxb Khoa học, 1964, tr. 104, 105.
(2). Đại Việt sử ký toàn thư, sđd, tr. 490.
(3) Đại Việt sử ký toàn thư, sđd, tr. 507.
(1) Đại Việt sử ký toàn thư, sđd, tr. 519..
(2) Đại Việt sử ký toàn thư, sđd, tr. 511.
(3). Lịch triều tạp kỷ, tập II, Nxb KHXH, 1975, tr. 110.
(4) (Lịch triều tạp kỷ, tập II, sđd, tr. 126.
(1) Lịch triều tạp kỷ, tập II, sđd, tr. 62.
(2) Bùi Xuân Đính - Gia Long với chủ trương cải tổ bộ máy quản lý và phong tục làng xã, tạp chí Dân tộc học, số 3/ 1996, tr. 40 - 45Đại Nam thực lục chính biên, tập IX, sđd, tr. 84.
(1) Đại Nam thực lục chính biên, tập IX, sđd, tr. 84 – 85.
(2) Nguyễn Quang Ngọc, Tổ chức quản lý …. bài đã dẫn, tr…
(3) Đây là điểm đáng lưu ý, càng tạo cho chức dịch “chạy” sang cường hào” (cả ý và từ là của Giáo sư Phan Đại Doãn)..
Một gia đình liệt sĩ ở huyện Hoài Đức, HN bị cường hào ác bá cướp đất, đập nhà. |
Đăng lần đầu 22:34 ngày 27/2/2012
“Bộ Chính trị triệu tập Hội nghị cán bộ lớn nhất từ trước đến nay”
Trả lờiXóahttp://laodong.com.vn/Tin-Tuc/Bo-Chinh-tri-trieu-tap-Hoi-nghi-can-bo-lon-nhat-tu-truoc-den-nay/76956
http://baodientu.chinhphu.vn/Home/Bo-Chinh-tri-trieu-tap-Hoi-nghi-can-bo-lon-nhat-tu-truoc-den-nay/20122/130878.vgp
Là tín hiệu đèn xanh của TBT và BCT để chuẩn bị trảm Bí thư Thành không?
Trong chỉ thị đã nhấn mạnh là các UV BCT, UV Trung Ương tự kiểm, tự xử mình trước.
Phải chăng đây là lời yêu cầu từ chức đối với các lãnh đạo cấp ủy có “vết” mà tiên phong, thí điểm chắc chắn sẽ là Hải Phòng, Tiên Lãng.
Hoặc nếu có ngoan cố không tự xử thì BCT cũng sẽ xử.
http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/61763/nguyen-tong-bi-thu--benh-da-chan--ai-uong-thuoc-truoc-tien-.html
_______________________________________
nhìn thấy bản mặt “bất biết đúng sai” của nhân vật – diễn viên Thành “bí” đang ngồi trơ trẽn quá.
Bốn mắt hắn lơ láo ngồi “ôm ghì chặt ghế”.
Đợi hồi kết xem hắn diễn đạt đến mức nào?
Nguyễn văn Thành bị dấu đi thôi . HN lần này có thấy đề cập đến việc trảm ai đâu? Các ghế phải bám chặt vào nhau chứ .
Trả lờiXóaBây giờ các xã, huyện, tỉnh, thành đều cố tạo ngân sách riêng, lại còn bổ nhiệm người theo ngành dọc : tỉnh bổ nhiệm H, H. bổ nhiệm xã, thử hỏi ông bà nào ngoài phe cánh mà được bổ nhiệm ? T-H-X liên thông nhau . Cơ chế UVTW, Tỉnh, thành ủy viên, huyện ủy viên , xã ủy viên có phải là thế liên hoàn dễ kéo bè kéo cánh ?
TÔI CHẲNG TIN ! HƠN 20 NĂM QUA CHO THẤY CHẲNG CÓ NQ NÀO THÀNH HIỆN THỰC !
Trả lờiXóaTHỰC TẾ SỰ THA HÓA ĐÃ & ĐANG HOÀNH HÀNH TRONG CHÍNH QUYỀN CÁC CẤP CHỨ KHÔNG RIÊNG GÌ CẤP PHƯỜNG , XÃ
Trả lờiXóanhìn thấy gia đình liệt sỹ mà thật sự lòng tôi đau cắt,thay mặt những người dân lương thiện bị cường hào ác bá cướp đất tôi đề nghị mức án tử hình tên quan phụ mẫu xã,huyện ở hoài đức này
Trả lờiXóanhà đất gia đình liệt sỹ cũng ăn cướp,xương máu của liệt sỹ cũng ăn,cầm thú nó còn không ăn thịt nhau huống chi là người
Giữa NÓI và LÀM bao giờ cũng có khoảng cách, chỉ mong rằng khoảng cách này rất, rất ep-si-lon...
Trả lờiXóaCảm ơn TS đã đưa bài viết lên. Xin phép TS tôi copy về trang cá nhân
Trả lờiXóahttp://violet.vn/ha-thach-huong/
Xã nào thời PK có HĐKM tốt với vị tiên chỉ là một cựu quan triều thanh liêm thì thường là xã tốt. Dân rất kính trọng các vị này, cường hào cũng sợ các vị ấy.
Trả lờiXóaNgười dân ở các xã thời nào cũng rất khổ. Có đồ ăn ngon, gái đẹp, người tài, sản phẩm gì độc đáo thì tiến vua, tiến quan trên hết rồi. Kẻ có học thì tìm cách lên tỉnh , lên thành. Có bắt được con cá to cũng không dám ăn một mình. Trương tuần, lý trưởng nó bắt ngay. Xem thế thì dân xã chỉ còn hưởng cặn bã , làm sao mà khá được !
Tiên Lãng,Nam Định, Hà Nam, Bắc Ninh, Văn Giang, hà Nội, Đồng Nai,Tiền Giang... dân oan mất đất than oán ngút trời thì bị bọn nào cướp đất hả các bác
Trả lờiXóa