Thứ Sáu, 2 tháng 9, 2011

TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA

Hỡi đồng bào cả nước,

Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.
 
Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.

Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi.
 
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.
 
Thế mà hơn tám mươi năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta.
 
Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa.
 
Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào.
 
Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết.
 
Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu.
 
Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân.
 
Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược.
 
Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến tận xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều.
 
Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu.
 
Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn, trở nên bần cùng.
 
Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên.
 
Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn.
 
Mùa thu năm 1940, phát-xít Nhật đến xâm lăng Đông - Dương để mở thêm căn cứ đánh Đồng minh, thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. Từ đó dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó dân ta càng cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng trị đến Bắc kỳ hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói.

Ngày 9 tháng 3 năm nay, Nhật tước khí giới của quân đội Pháp. Bọn thực dân Pháp hoặc bỏ chạy hoặc đầu hàng. Thế là chẳng những chúng không bảo hộ được ta, trái lại, trong 5 năm, chúng dã man bán nước ta hai lần cho Nhật.

Trước ngày mồng 9 tháng 3, biết bao lần Việt minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật. Bọn thực dân Pháp đã không đáp ứng, lại thẳng tay khủng bố Việt minh hơn nữa.

Thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng.

Tuy vậy, đối với nước Pháp, đồng bào ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và nhân đạo. Sau cuộc biến động ngày mồng 9 tháng 3, Việt minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật, và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ.
 
Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp.
 
Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần một trăm năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mưới thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa.
 
Bởi thế cho nên, chúng tôi, Lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam.
 
Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng, kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp.
 
Chúng tôi tin rằng các nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các Hội nghị Tê-hê-răng và Cựu-kim-sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam.
 
Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn tám mươi năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát-xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do ! Dân tộc đó phải được độc lập !
 
Vì những lẽ trên, chúng tôi, Chính phủ Lâm thời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng:

Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.

Nguồn: http://www.cpv.org.vn/
 TranNhuong.com

Thứ Năm, 1 tháng 9, 2011

BBC: TRUYỀN HÌNH HÀ NỘI KHÔNG XIN LỖI



Truyền hình Hà Nội không xin lỗi

Cập nhật: 03:48 GMT - thứ năm, 1 tháng 9, 2011
Giáo sư Nguyễn Huệ Chi và nhà văn Nguyên Ngọc trong cuộc biểu tình hôm 14/8
Nhà văn Nguyên Ngọc và Giáo sư Huệ Chi đã tham gia một số cuộc biểu tình
Tổng giám đốc Đài PT-TH Hà Nội (HTV) vừa phản hồi khiếu nại của nhóm người biểu tình chống Trung Quốc, nói đã 'rút kinh nghiệm' nhưng không xin lỗi.
Trong chương trình Thời sự hàng ngày từ 18:30 tới 19:00 hôm 22/8/2011, đài này đã phát một phóng sự nói về các cuộc biểu tình chống Trung Quốc tại Hà Nội, trong đó có trích phỏng vấn một số người dân.
Nội dung phóng sự, cũng như ý kiến của bốn người dân được phỏng vấn, chỉ trích các cuộc biểu tình và người tham gia biểu tình, thậm chí gọi họ là "phần tử phản động".
Đặc biệt, trong một khuôn hình, các phóng viên HTV chiếu cận mặt ba nhân sỹ nổi tiếng trong nước là nhà văn Nguyên Ngọc, Giáo sư Nguyễn Huệ Chi và Tiến sỹ Nguyễn Văn Khải.
Cùng lúc, phát thanh viên đọc lời bình: "... việc tham gia biểu tình lại trở thành tấm bia che chắn cho các thế lực thù địch phản động đằng sau đang ráo riết chia rẽ khối đại đoàn kết, kích động tư tưởng hằn thù dân tộc..."
Ngày 26/8 một nhóm người tham gia biểu tình, trong có hai trong ba vị nêu trên, đã gửi thư tới Tổng giám đốc HVT yêu cầu cải chính và xin lỗi.
Thư viết rằng nội dung phóng sự của HTV "rõ ràng đã xuyên tạc, vu khống, xúc phạm đến chúng tôi".

Không cải chính

Đài Hà Nội, sau khi nhận được thư khiếu nại, đã tổ chức gặp mặt đại diện cho nhóm người biểu tình và cuối cùng ngày 31/8 đã có thư phúc đáp họ.
Bức thư, do Tổng giám đốc HTV Trần Gia Thái ký, viết rằng các cuộc "tụ tập biểu tình, tuần hành tự phát đã làm ảnh hưởng xấu tới an ninh trật tự của thủ đô".
Thư cũng viết tình trạng tiếp tục biểu tình đã "gây bất bình trong dư luận xã hội".
HTV cho rằng phóng sự của họ là thể theo yêu cầu của "nhiều tầng lớp nhân dân thủ đô", vốn "mong muốn chính quyền sớm có biện pháp chấm dứt biểu tình tự phát".
"Ở nước ta, gọi một người là phản động cũng tức là kết tội người ấy là một tên phản quốc. Đối với tôi, đây là một sự lăng nhục cực kỳ nghiêm trọng, nhất quyết không thể tha thứ."
Nhà văn Nguyên Ngọc
Đài này còn đoan chắc "mới chỉ đưa bốn trong hàng trăm ý kiến đã ghi hình".
Về hình ảnh của ba vị nhân sỹ bị đưa lên trong phóng sự, HTV nói đây chỉ là "để minh họa cho nội dung trong bản tin chứ không nêu đích danh những người này là phản động, ch́ông đối như trong thư của các ông".
Thư của HTV thừa nhận "việc đưa bức ảnh trên không phù hợp với nhân thân một số người", và nói "đã kịp thời rút kinh nghiệm" với các phóng viên thực hiện phóng sự.
Tuy nhiên, Tổng giám đốc Trần Gia Thái trong bức thư đã không ngỏ lời xin lỗi.

Xúc phạm nặng nề

Sau khi nhận được thư của HTV, nhà văn Nguyên Ngọc, một trong những người yêu cầu cải chính xin lỗi, đã lên tiếng trên một diễn đàn mạng, bình luận rằng trả lời của ông Trần Gia Thái là "phủi tay và vô liêm sỉ".
Hiện chưa rõ nhóm người biểu tình có định tiếp tục khiếu nại của mình hay không.
Nhà văn Nguyên Ngọc cũng công bố bức thư ông gửi cho Bí thư Thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị trước khi nhận được phản hồi của HTV.
Biểu tình chống Trung Quốc ở Hà Nội
Đã có tổng cộng 11 cuộc biểu tình chống Trung Quốc tại Hà Nội
Trong thư đề ngày 25/8, ông Ngọc viết: "Tôi năm nay đã 80 tuổi. Cho đến nay, trong suốt cuộc đời 80 năm qua của tôi, chưa có ai dám vu khống và xúc phạm tôi nặng nề như Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội".
"Ở nước ta, như chắc chắn ông biết, gọi một người là phản động cũng tức là kết tội người ấy là một tên phản quốc. Đối với tôi, đây là một sự lăng nhục cực kỳ nghiêm trọng, nhất quyết không thể tha thứ."
Nhà văn Nguyên Ngọc cũng nói với người đứng đầu cơ quan Đảng của thành phố, rằng HTV đã "sử dụng một thủ đoạn ti tiện" từng được áp dụng từ thời cải cách ruộng đất và Nhân văn Giai phẩm, là "dùng những người không được bất cứ ai cử ra nhưng lại được coi là đại biểu của “quần chúng nhân dân" lớn tiếng vu khống và chửi bới chúng tôi trên một phương tiện truyền thông chính thức của Đảng bộ và Chính quyền Hà Nội".
Được biết không chỉ HTV mà một số cơ quan truyền thông khác của Hà Nội cũng đăng tải các bài viết, phóng sự chỉ trích các cuộc biểu tình, gọi đây là do 'thế lực thù địch giật dây'.
Tổng cộng 11 cuộc tuần hành chống Trung Quốc đã diễn ra tại Hà Nội, với hàng trăm người tham gia.

SỨ THẦN VIỆT NAM, TRIỀU TIÊN TẠI TRUNG QUỐC

Chùm bài về Ngoại giao Việt - Trung:
Bài 5: Sứ thần Việt Nam - Triều Tiên tại Trung Quốc
Lý Xuân Chung


VỀ VĂN BẢN THƠ XƯỚNG HỌA GIỮA
NGUYỄN CÔNG HÃNG (VIỆT NAM) VỚI DU TẬP NHẤT, LÝ THẾ CẨN (HÀN QUỐC) TRONG CHUYẾN ĐI SỨ TRUNG QUỐC NĂM 1718

Lý Xuân Chung
Lời dẫn của Nguyễn Xuân Diện: Năm 1718, sứ thần Việt Nam là Nguyễn Công Hãng, Trưởng đoàn ngoại giao (Chánh sứ) Việt Nam đi sứ Yên Kinh (TQ). Tại Yên Kinh, đoàn ngoại giao Việt Nam và Triều Tiên do Du Tập Nhất làm Trưởng đoàn đã được nước chủ nhà bố trí ăn nghỉ tại Khách sạn Ngọc Hà (lúc đó gọi là Ngọc Hà quán). Hai đoàn ngoại giao VN và Triều Tiên đã ở cùng với nhau hơn 01 tháng tại Ngọc Hà quán và đã xướng họa thơ văn với nhau. Bài viết dưới đây của TS. Lý Xuân Chung (Viện KHXH Việt Nam) sẽ cho chúng ta biết về cuộc xướng họa của sứ thần Việt Nam và Triều Tiên trong thời gian này. Xin cảm ơn TS Lý Xuân Chung!
Nguyễn Công Hãng (1680 - 1732) tự Thái Thanh, hiệu Tĩnh Am, người làng Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn (nay thuộc Tiên Sơn, Bắc Ninh). Năm 1700, ông thi đỗ Tiến sĩ, làm quan tới các chức Hữu Thị lang, Tả Thị lang Bộ Binh rồi Thượng thư, Tham tụng trong phủ chúa. Ông được chúa Trịnh Cương tin dùng, ban chức trọng yếu, giữ chức Tể tướng suốt 13 năm. Trịnh Giang sau khi lên ngôi chúa còn tin dùng ông một thời gian, sau nghe lời gièm, giáng xuống làm Thừa chính xứ Tuyên Quang rồi bức tử vào năm 1732.

Trong thời gian giữ trọng trách trong phủ Chúa, năm 1718, ông được cử đi sứ Trung Quốc.


Về thơ văn, các sách như Tìm hiểu kho sách Hán Nôm của Trần Văn Giáp; Từ điển văn học của Lại Nguyên Ân chủ biên; Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam của Đinh Xuân Lâm - Trương Hữu Quýnh chủ biên; Thơ đi sứ của Phạm Thiều - Đào Phương Bình chủ biên... đều thống nhất ghi rằng, ông có Tinh sà thi tập một quyển, làm trong chuyến đi sứ Trung Quốc.


Lần tìm trong Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu - cũng như Thư mục ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm, chúng tôi không tìm thấy cuốn sách có đầu đề như vậy. Có điều là, chúng tôi tìm thấy một cuốn có ghi chép thơ văn của Nguyễn Công Hãng được làm trong chuyến đi sứ Trung Quốc năm 1718, tức năm Vĩnh Thịnh thứ 14. Đó là cuốn Bắc sứ thi tập, ký hiệu VHv.2166, bản viết tay, chữ tốt, dễ đọc, 72 trang, khổ 26 x15cm, gồm 2 tập thơ đi sứ của Đào Công Chính và Nguyễn Công Hãng. Thơ văn của Nguyễn Công Hãng duy nhất có cuốn này, tuy mới có thêm bản chụp mang ký hiệu VHc.304 thì cũng là photocopy từ bản này, trong đó, từ tờ 31b đến tờ 34a có phần thơ xướng họa giữa Nguyễn Công Hãng với Du Tập Nhất và Lý Thế Cẩn, tổng cộng 12 bài, gồm 4 bài xướng của Nguyễn Công Hãng, 4 bài họa của Du Tập Nhất và 4 bài hoạ của Lý Thế Cẩn.


Theo Bắc sứ thi tập, trong chuyến đi sứ năm Vĩnh Thịnh thứ 14 (1718), Nguyễn Công Hãng khi đó đang giữ chức Binh bộ Hữu thị lang được cử làm Chánh sứ, dẫn đầu đoàn sứ bộ nước ta sang Trung Quốc. Trong thời gian ở Bắc Kinh, đoàn sứ bộ nước ta đã gặp đoàn sứ bộ Triều Tiên do Chánh sứ Du Tập Nhất, hiệu là Thủ Huyền cư sĩ, giữ chức Hình bộ Thượng thư cùng với Phó sứ Lý Thế Cẩn, hiệu là Tĩnh Hiên cư sĩ, giữ chức Phán quan dẫn đầu. Nguyễn Công Hãng là người gửi bài thơ xướng và Du Tập Nhất, Lý Thế Cẩn làm thơ họa lại.


Khi tới Hàn Quốc, chúng tôi đã mất công tìm kiếm nhưng chưa tìm thấy thi tập của Du Tập Nhất, chỉ tìm thấy tập thơ văn của Lý Thế Cẩn, nhan đề Tĩnh Hiên tập, có phần thơ văn xướng họa với Nguyễn Công Hãng.


Theo Tĩnh Hiên tập, tr.352, 353, tư liệu ở Thư viện Quốc gia Trung ương, Seoul, Hàn Quốc cho biết, hai đoàn sứ thần khi tới Bắc Kinh thì được bố trí ở chung tại quán nghỉ Ngọc Hà hơn 40 ngày, đôi bên thường xuyên qua lại thăm hỏi lẫn nhau và trao đổi thơ văn. Có điều là, Tĩnh Hiên tập chỉ ghi chép 8 bài thơ xướng hoạ giữa Nguyễn Công Hãng với Lý Thế Cẩn, Nguyễn Công Hãng làm bài xướng (4 bài), Lý Thế Cẩn họa lại (4 bài).


Đối chiếu từng câu từng chữ ở 8 bài có trong hai văn bản, thấy có đôi chỗ xuất nhập, chúng tôi chọn 8 bài trong Tĩnh Hiên tập để phân theo thứ tự (sau đây gọi là bản A, còn bản Bắc sứ thi tập gọi là bản B) để xem xét.
Bài thứ nhất: có 3 chỗ xuất nhập ở câu 1, 4 và 5:
Câu 1, bản A chép: 故 園 歸 夢 不 言 賒 - Cố viên quy mộng bất ngôn xa.
Bản B chép: 故 園 於 夢 不 憚 賒 - Cố viên ư mộng bất đạn xa. Xét về nghĩa: ngôn nói, đạnsợ, ngại.
Bất ngôn xa có nghĩa không nói là xa; Bất đạn xa có nghĩa là không ngại xa, không sợ xa. Xét về niêm luật thì ở chữ thứ 6 này phải là vần bằng, chữ đạn vần trắc ở đây là thất niêm nên bất ngôn xa hợp lý hơn bất đạn xa. Chữ quy và chữ ư ở hai câu cũng cần xem xét. Về nghĩa, câu của bản A có thể hiểu là: mộng về quê cũ chẳng nói là xa. Nếu thay chữ ư vào chữ quy thì có thể hiểu là: Quê cũ ở trong mộng không nói là xa, xem ra câu thơ thuận lý hợp tình. Như vậy, câu này sẽ là: Cố viên ư mộng bất ngôn xa.
Câu 4, bản A chép: 驛 梅 新 放幾 枝 花 "Dịch mai tân phóng kỷ chi hoa". Bản B bỏ trống hai chữ 新 放tân phóng. Bởi thế, hai chữ tân phóng của bản A đã hoàn thiện cho câu thơ của bản B. Nghĩa cả câu là:
Cây mai ở trạm nghỉ mới nở mấy nhành hoa.
Câu 5, bản A chép: 玉 樓 寒 盡 猶 瞻 極 - Ngọc lâu hàn tận do chiêm cực.
Bản B chép: 玉 樓 寒 盡 惟 吟 日 - Ngọc lâu hàn tận duy ngâm nhật".
Xét về niêm luật thì cả hai câu đều đúng. Xét về ý nghĩa thì khác nhau: Ngọc lâu hàn tận do chiêm cực".
Nghĩa là: Ở lầu ngọc, lạnh đã hết, có thể phóng hết tầm mắt.
"Ngọc lâu hàn tận duy ngâm nhật"
Nghĩa là: Ở lầu ngọc, lạnh đã hết, chỉ là ngày ngâm vịnh.
Đây là bài thơ Lý Thế Cẩn họa thơ Nguyễn Công Hãng, bởi thế, về mặt văn bản, ba chữ do chiêm cực của bản A có lẽ hợp hơn. Hơn nữa, xét đối với câu dưới: 銀渚 春 生 未 返槎 - "Ngân chử xuân sinh vị phản sà". Nghĩa là: Ở Ngân đảo, xuân đã đến, (mà) chưa thể quay bè sứ trở về.
Ta thấy, câu chữ của bản A có lẽ đẹp hơn, hay hơn, hợp hơn với nỗi niềm của người đi sứ nhớ quê hương.
Bài thứ ba: có ba chỗ xuất nhập ở câu 4, 5 và 7.
Câu 4 và 5, bản A chép:
書中慕子三冬足
旅次嗟予兩 鬢 花
"Thư trung mộ tử tam đông túc,
Lữ thứ ta dư lưỡng mấn hoa".
Nghĩa là:
Trong thư được biết và hâm mộ ông ở đây đã ba mùa đông,
Than cho tôi là kẻ lữ thứ đôi bên tóc mai đã đốm hoa.
Bản B chép:
觀 光 慕 子 雙 眸 闊
作 客 嗟 予 兩 鬢 花
"Quan quang mộ tử song mâu khoát,
Tác khách ta dư lưỡng mấn hoa".
Nghĩa là:
Xem (tướng mạo) sáng sủa, hâm mộ ông có đôi mắt rộng,
Than cho tôi là kẻ làm khách đôi bên tóc mai đã đốm hoa.
Hai chữ lữ thứtác khách ở câu 5 không khác nhau lắm về ý nghĩa. Nhưng, ở câu 4, bản B dùng cả một câu khen tướng mạo sứ thần nước bạn, hâm mộ đôi mắt (to) rộng thì thấy có vẻ không ổn. Trong các bài thơ gửi tặng Nguyễn Công Hãng, Lý Thế Cẩn không giấu nổi nỗi buồn chưa hoàn thành việc đi sứ, phải ở lại lâu ngày ở quán khách, lẻ loi buồn rầu. Ở bài thứ 6, Lý Thế Cẩn viết rõ:
孤館
無 限 羈 愁 萬 斛 餘
Thiểu nhiên cô quán đẳng thiền cư,
Vô hạn ky sầu vạn hộc dư.
Nghĩa là:
Buồn rầu lẻ loi ở quán trạm, tựa như sống trong cảnh thiền,
Nỗi buồn vô hạn, uống rượu nhiều.(1)
Hoặc như:
故 園 於 夢 不 言 賒
客 館 經 年 便 作 家
"Cố viên ư mộng bất ngôn xa,
Khách quán kinh niên tiện tác gia".
Nghĩa là: Quê cũ ở trong mộng, không nói là xa,
Ở quán khách trải bao năm bèn coi như nhà mình.
Như vậy, câu chữ ở bản A có lẽ hợp lý hơn.
Câu thứ 7, bản A chép: 歸 來 相 憶 形 聲 夢 -Quy lai tương ức hình thanh mộng". Nghĩa là: Trở về, cùng nhớ hình bóng, tiếng nói ở trong mộng.
Bản B chép: 歸 來 相 憶 形 客 夢 - Quy lai tương ức hình khách mộng". Nghĩa là: Trở về, cùng nhớ hình bóng khách ở trong mộng.
Về ý nghĩa, sứ thần hai nước Việt - Hàn trong lịch sử luôn có tình cảm tốt đẹp với nhau, coi nhau như bạn thân lâu ngày gặp lại. Điều này đặc biệt phản ánh rõ nét trong nội dung thơ xướng hoja của hai ông. Bởi thế, chữ khách ở đây không hợp ý nghĩa, hơn nữa, lại phạm luật bằng trắc, chữ thứ 6 này phải là thanh bằng mới hợp cách.
Như vậy, câu chữ bản A hợp lý hơn.
Sau khi xem xét tổng thể văn bản của hai bên, sơ bộ, chúng tôi có nhận xét sau:
1. Văn bản Bắc sứ thi tập của Nguyễn Công Hãng ở Việt Nam có nhiều hơn Tĩnh Hiên tập của Lý Thế Cẩn (Hàn Quốc) 4 bài thơ.
2. Trong 4 bài thơ của Lý Thế Cẩn trong Tĩnh Hiên thi tập thì có 2 bài trùng với 2 bài của Du Tập Nhất trong Bắc sứ thi tập. Như vậy, nếu coi bản Bắc sứ thi tập đầy đủ hơn thì bản Tĩnh Hiên thi tập thiếu mất hai bài của Lý Thế Cẩn, thừa ra 2 bài của Du Tập Nhất.
3. Hai văn bản đều thống nhất chép rằng, Nguyễn Công Hãng gửi bài xướng và sứ thần Hàn Quốc Lý Thế Cẩn họa vần.
4. Trong 8 bài ở cả hai văn bản, chỉ có bài thứ nhất và bài thứ ba đều có ba chỗ xuất nhập như đã nêu ở trên.
Dưới đây là phần phiên âm, dịch nghĩa 8 bài thơ trong Tĩnh Hiên tập của Lý Thế Cẩn (Hàn Quốc):
Ở quán Ngọc Hà đáp lại thơ khất họa của Chánh sứ An Nam (Ngọc Hà quán thù An Nam quốc Chánh sứ khất họa vận).
Bài 1: Lý Thế Cẩn họa thơ Nguyễn Công Hãng.
Phiên âm:
Cố viên quy mộng bất ngôn xa,
Khách quán kinh niên tiện tác gia.
Thôn tửu thặng thành liên nhật tuý,
Dịch mai tân phóng kỷ chi hoa.
Ngọc lâu hàn tận do chiêm cực,
Ngân chử xuân sinh vị phản sà.
Đồng thị lữ nhân quân cánh viễn,
Nhất ban sầu tứ tưởng ưng gia.
Dịch nghĩa:
Mộng về quê cũ chẳng kêu xa,
Ở quán khách trải bao năm bèn coi như nhà mình.
Rượu trong thôn vẫn có, thành ra cứ say hết ngày này qua tháng khác,
Cây mai ở trạm nghỉ mới nở mấy nhành hoa.
Ở lầu ngọc đã hết lạnh, có thể phóng hết tầm mắt,
Ở Ngân đảo, mùa xuân đã đến mà chưa thể quay thuyền trở về.
Cùng là khách đi xa, nhưng ông ở xa hơn,
Nỗi buồn như nhau nhưng nỗi niềm nhớ quê hương của ông
hẳn càng sâu nặng hơn.
Bài thứ hai:
Phiên âm:
Các tự Đông Nam hải nhất tâu,
Ngộ ngôn vô lộ chỉ hồi đầu.
Y quan định tập văn minh chế,
Điền phú ưng tòng thượng hạ trù.
Cánh bả thiên chương khâm điển nhã,
Tức tri phong khí tuyệt khoa phù.
Kinh bang đại pháp duy Chu Khổng,
Tu hướng di biên tự tự tu.
Dịch nghĩa:
Tôi và ông từ góc biển Đông và Nam tới,
Gặp nhau, nói không hiểu chỉ ngoái đầu.
Mũ áo nhất định phải phỏng theo chế độ văn minh,
Thuế ruộng nên định theo bờ trên bờ dưới.
Càng nên rèn rũa khâm định văn chương cho thêm điển nhã,
Tức là biết khoa trương phong khí đến mức tuyệt vời.
Phép lớn kinh bang duy chỉ theo Chu Công, Khổng Tử,
Nên theo Ngài tu sửa từng chữ từng chữ trong di cảo.
Nguyễn Công Hãng gửi Lý Thế Cẩn theo vần như trước
Bài 1.
Phiên âm:
Hải quốc Đông Nam vạn lý xa,
Ngọc kinh hỷ ngộ quán thiên gia.
Thư trung mộ tử tam đông túc,
Lữ thứ ta dư lưỡng mấn hoa.
Tưởng thị đồng niên từ giả án,
Cộng tuỳ bát nguyệt phiếm tiên sà.
Quy lai tương ức hình thanh mộng,
Dĩ nghĩ vu kim cánh bội gia.
Dịch nghĩa:
Tôi ở bờ biển Nam, ông ở biển Đông
cách xa nhau hơn vạn dặm,
Vui mừng được gặp nhau ở Yên Kinh, quán Ngọc Hà và cùng vào chầu thiên vương.
Trong thư được biết và hâm mộ ông ở đây đã ba mùa đông,
Than cho tôi là kẻ lữ thứ đôi bên tóc mai đã đốm hoa.
Ngỡ là cùng một năm từ biệt án thư màu đỏ sẫm,
Vào tháng tám, cùng nhau cưỡi bè tiên đi về.(2)
Trở về cùng nhớ hình bóng, tiếng nói ở trong mộng,
Nghĩ đến hôm nay càng nhớ nhau hơn.
Bài 2.
Văn đạo Đông Hàn trạch hải tâu,
Cửu Đô sơn hạ Hán giang đầu.
Văn chương cơ trục cao thiên cổ,
Nghĩa lý uyên nguyên tục cửu trù.
Hàng tửu khử hàn xuân sắc noãn,
Ma y liễm thể tuyết hoa phù.
Tức kim ba thiếp Đông minh cửu,
Cộng dĩ niên niên chức cống tu.
Dịch nghĩa:
Nghe nói nhà ông ở Đông Hàn, bên góc bể,
Ở đầu nguồn sông Hàn(3), dưới chân núi Cửu Đô.
Nếp văn chương có từ ngàn xưa,
Nghĩa lý nguồn sâu kế tục Cửu trù(43).
Uống rượu Hàng Châu xua cái lạnh đi sắc xuân ấm tới,
Thu mình trong tấm áo gai theo hoa tuyết bay.
Cũng tức là nay theo làn sóng về biển Đông quốc
Tôi cùng ông trải mấy năm hoàn thành chức trách đi triều cống.
Lý Thế Cẩn lại gửi bài thơ họa lại thơ của Chánh sứ An Nam Nguyễn Công Hãng
Bài 1.
Phiên âm:
Thủ bả quỳnh cư ngoạn tái tam,
Từ đàn thanh giá trọng song Nam.
Tòng tri vạn quốc đồng văn quỹ,
Cánh hỷ viêm phương dưỡng đạo tàm.
Kinh nghĩa tự lai đa uẩn dữ,
Công phu tu thả cực nghiên đàm.
Hoàn tương vô ngữ thù khuyến ý,
Duyệt nhược tình song đối trần đàm.
Dịch nghĩa:
Tay cầm ngọc đẹp thưởng ngoạn ngắm nghía hồi lâu(5),
Ông đã nổi tiếng trên văn đàn được cả hai nước tôn trọng.
Từ lâu đã biết các nước đồng văn đồng quỹ(6)
Càng vui hơn khi biết vùng xứ nóng trồng lúa nuôi tằm.
Kinh nghĩa từ trước tới nay đã trao tặng cho nhau nhiều,
Càng phải bỏ công phu nghiên cứu thật sâu xa.
Ngày ông về, chẳng biết nói gì, làm thơ đáp lại tỏ ý khuyến khích,
Vui mừng như cùng ngồi bên song cửa đầy nắng bàn chuyện thế gian.
Bài 2.
Phiên âm:
Thiểu nhiên cô quán đẳng thiền cư,
Vô hạn ky sầu vạn hộc dư.
Đắc thử quỳnh chương song thủ quán,
Thắng ư phỉ kỷ thập niên thư.
Khách trung tuế luật hồi nguyên hiến,
Mộng lý hương tình thuyết Mạnh chư.
Văn đạo tiên sà quy nhật cận,
Xuất phàn phi điểu hứng hà như.
Dịch nghĩa:
Buồn rầu lẻ loi ở quán trạm tựa như sống trong cảnh thiền,
Nỗi buồn nơi đất khách vô bờ bến, uống rượu nhiều.
Nhận được bài thơ như ngọc này, vội rửa sạch hai tay,
Hơn hẳn (thơ) của đồng liêu mấy chục năm đọc sách.
Trong số khách (đến đây), ông đã xong việc tuế cống và được trở về với quê hương văn hiến,
Trong mộng trào dâng tình cảm quê hương và nói chuyện kinh sách thánh hiền.
Nghe nói công việc đi sứ đã xong, sắp đến ngày sứ bộ trở về,
Ra khỏi miền đất này, không biết cánh chim vui thú bay về đâu.
Nguyên vận của Nguyễn Công Hãng
Bài 1.
Phiên âm:
Thương hải dương trần kỷ độ tam,
Viêm bang tự tích trạch giao Nam.
Lục kinh dĩ ngoại vô tha đạo,
Nhất tuế chi trung thục bát tàm.
Vạn hộ ngư diêm thường cấp túc,
Tứ thời hoa thảo cộng phu đàm.
Quy lai tuyên thất như tiền tịch,
Tự dữ quan phong trợ nhất đàm.
Dịch nghĩa:
Trải bao phen vật đổi sao dời,
Vùng đất xứ nóng từ xưa đã ở phương Nam.
Ngoài lục kinh ra(7), chẳng theo đạo nào khác,
Một năm thu hoạch tám lứa tằm.
Nhân dân theo nghề đánh cá làm muối thường no đủ,
Bốn mùa hoa cỏ tốt tươi.
Khi về nhớ cảnh đền đài,
Giống như trong bữa tiệc hôm trước nói chuyện về phong cảnh tham quan.
Bài 2.
Phiên âm:
Địa các Đông Nam hải tế cư,
Kế trình vạn lý hữu linh dư.
Uy nghi cộng bỉnh Cơ gia lễ,
Học vấn đồng tôn Khổng thị thư.
Hảo bả văn chương thông khẳng khái,
Hưu luân ôn bão độ cư chư.
Sứ thiều vân phản trùng tương ức,
Tại tử an tri bất ngã như?
Dịch nghĩa:
Tôi ở bờ biển Nam, ông ở bờ biển Đông,
Đường đi tính ra tới hơn vạn dặm trường.
Nghi lễ cùng theo lễ nhà Chu,
Học vấn cùng theo sách thầy Khổng Tử.
Khéo dùng văn chương khẳng định điều ấy,
Không phải bàn luận chuyện no ấm qua ngày.
Sứ thiều trở về nhớ đến chuyện ở đây,
Biết đâu ông lại chẳng giống như tôi?
Chú thích:
(1) Hộc: dụng cụ đo dung tích thời xưa; Vạn hộc dư: hơn vạn hộc, ý chỉ uống rượu nhiều.
(2) Tiên sà: bè tiên, chỉ công việc đi sứ. Đây ý nói vào tháng tám, công việc đi sứ hoàn tất thì cùng chia tay nhau trở về.
(3) Sông Hàn: theo chữ Hán là Hán giang nhưng đọc theo âm Hàn là Han-Kang, nghĩa là sông lớn, sông cái. Các học giả Hàn Quốc chấp thuận theo cách dịch là sông Hàn chứ không có nghĩa là sông Hán, chỉ Trung Quốc.
(4) Cửu trù: tức Hồng phạm cửu trù (chín phép cai trị thiên hạ). Tục truyền sau khi nhà Chu diệt xong nhà Thương đã phong vương cho Cơ Tử ở đất cổ Triều Tiên. Cơ Tử là người nắm được Hồng phạm cửu trù và truyền cho Chu Vũ Vương. Ở đây ý nói theo lễ nghi nhà Chu.
(5) Ở đây, Lý Thế Cẩn ví bài thơ xướng họa của Nguyễn Công Hãng gửi cho như những viên ngọc đẹp.
(6) Đồng văn đồng quỹ: tức "xa đồng quỹ, thư đồng văn", xe lăn cùng một khổ trục bánh, sách viết cùng một lối chữ, ý nói hai nước cùng theo một đạo học - đạo Nho.
(9) Lục kinh: 6 bộ sách kinh điển của Nho gia gồm Kinh Thi, Thư, Lễ, Dịch, Nhạc Xuân Thu, nay kinh Nhạc không còn, chỉ còn lại Ngũ kinh. Đây có ý chỉ đạo Nho.
Tài liệu tham khảo
1.Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. KHXH, H. 1993.
2.Đại cương lịch sử Việt Nam, Nxb. Giáo dục. 2004.
3.Từ điển văn học Việt Nam (Từ nguồn gốc đến hết TK XIX), Lại Nguyên Ân biên soạn với sự cộng tác của Bùi Văn Trọng Cường, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội.
4.Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Đinh Xuân Lâm - Trương Hữu Quýnh chủ biên, Nxb. Giáo dục, 2005.
5.Thơ đi sứ. Phạm Thiều - Đào Phương Bình chủ biên, Nxb. KHXH, H. 1993.
6.Trần Văn Giáp: Tìm hiểu kho sách Hán Nôm. tập I, II; Tác phẩm được giải thưởng Hồ Chí Minh, Nxb. KHXH, H. 2003.
7.Trần Văn Giáp: Lược truyện các tác gia Việt Nam, Nxb. KHXH, H. 1971.
8.Nguyễn Công Hãng: Bắc sứ thi tập; VHv.2166; VHc.2160.
9.Tĩnh Hiên tập, tư liệu thư viện quốc gia Seoul Hàn Quốc./.


Tác giả Lý Xuân Chung, là Tiến sĩ ngữ văn, đã từng công tác tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. 

SỨ THẦN TRUNG HOA VÀ NGÔI ĐÌNH LÀNG XỨ BẮC

Chùm bài về Ngoại giao Việt - Trung:
Bài 4: Sứ thần Trung Hoa và ngôi đình làng Xứ Bắc
Phạm Thùy Vinh


Đình Tây Đằng, Ba Vì, Hà Tây (cũ). Ảnh: Internet.
Sứ thần Trung Hoa và ngôi đình làng xứ Bắc

Phạm Thùy Vinh

Xã Quang Thịnh huyện Lạng Giang là xã tận cùng phía Bắc của tỉnh Bắc Giang giáp giới với huyện Hữu Lũng tỉnh Lạng Sơn. Đây là một xã miền núi có nhiều đồi rừng nhưng lại thuận lợi nằm giữa trục đường quốc lộ đi ngược lên xứ Lạng và xuôi về Hà Nội. Xã Quang Thịnh ngày nay được hợp thành bởi hai xã: Vĩ Liệt và Thịnh Liệt thuộc tổng Thịnh Liệt huyện Bảo Lộc phủ Lạng Giang xứ Kinh Bắc xưa. Các sứ thần Đại Việt khi đi sứ sang Trung Quốc và các đoàn sứ bộ Trung Hoa vào Việt Nam đều phải đi qua con đường chạy dài qua địa phận xã Quảng Thịnh. Rất có thể đây là một trong những dịch trạm cho các sứ thần Đại Việt và Trung Hoa trên chặng đường đi sứ.

Trong dịp đi sưu tầm tư liệu Hán Nôm tại huyện Lạng Giang vào cuối năm 1998 vừa qua, chúng tôi(1) được phân công đi về 9 xã phía Bắc của huyện, trong đó có xã Quang Thịnh. Cứ tưởng là vùng núi xa xôi sẽ chẳng còn tư liệu gì của ông cha để lại, nhưng thật bất ngờ ở đây di sản Hán Nôm còn tương đối phong phú, nhất là văn bia. Hầu hết các bia đá đều được bảo quản trong các di tích như đình, chùa. Trong các cụm di tích ở đây, đáng lưu ý nhất là các ngôi đình. Thật hiếm gặp ở các xã miền núi xa lại giữ được nhiều ngôi đình đến thế. Hiện xã còn 4 ngôi đình, trong đó đáng kể nhất là hai ngôi đình mang kiến trúc thời Lê ở hai thôn Tân Lạc và Thanh Lương. Cả hai ngôi đình này đều đã được dân trong thôn tu tạo lại nhưng vẫn giữ nguyên bộ khung của đình bằng gỗ lim gồm các cột đình, các vì kèo, các câu đầu, các rui mè v.v… Đình thôn Tân Lạc còn có tấm bia đá tạo năm Vĩnh Khánh 2 (1730) - đời nhà Lê ghi lại việc xây dựng đình vào thập niên đầu thế kỷ 18. Đình thôn Thanh Lương thì chỉ còn một số bia Hậu vào đầu thời Nguyễn. Bộ khung đình của thôn Thanh Lương còn khá chắc chắn, gỗ lim để lâu nên nước đen bóng mặc dù đã bị chuyển dịch nhiều lần.

Khi chúng tôi đến đình thôn Thanh Lương, các cụ cao tuổi trong làng có giới thiệu tóm tắt về lịch sử xây dựng định. Có một chi tiết mà các cụ cứ nhắc đi nhắc lại rất đỗi tự hào: Rằng đình làng chúng tôi được xây dựng từ thời Tống do ông Tống Trân khi đi sứ Tàu đã về làng hưng công xây dựng nên; Rằng tên ông ấy còn ghi lại trên cột đình. Lúc đó chúng tôi đã cười vì câu chuyện mang đầy sự tưởng tượng dân gian của các cụ. Làm gì có ngôi đình nào Việt Nam được xây dựng từ thời Tống? Làm gì có một ông Tống Trân của Việt Nam hiện hữu và đi sứ sang Tàu? Câu chuyện Tống Trân – Cúc Hoa chỉ là truyện dân gian mượn của Tàu, kiếm đâu ra một ông sứ thần Tống Trân của Việt Nam lại còn về xây đình cho thôn Thanh Lương nữa thì thật là quá sức tưởng tượng của chúng tôi. Với suy nghĩ như vậy nên quả thật cả hai anh em chúng tôi đều không chú ý đến tình tiết của câu chuyện mà các cụ đã kể. Chúng tôi chỉ lúi húi ghi chép các hoành phi câu đối và in rập văn bia.

Như đã nói ở trên, ngôi đình làng này còn mang đậm dấu ấn kiến trúc thời Lê nhưng không còn văn bia của thời đó ghi lại việc xây đình như đình thôn Tân Lạc. Trên các câu đầu hoặc thượng lương của đình cũng không ghi. Tôi có đến đọc một số chữ Hán khắc trên các cây cột đình, đến cây cột mà các cụ chỉ là của ông Tống Trân thì chữ khắc ở trên cao, lại ở góc khuất, nên chỉ đọc được mấy chữ “Bắc quốc… cung tiến nhất chu”, chúng tôi đã tạm giải thích cho các cụ: Chắc là có người Trung Quốc nào đó hoặc ở chỗ khắc hoặc lấy vợ làng này đã công đức một cây cột đình khi làng xây đình, chỉ có vậy thôi. Bởi vì vào các thế kỷ 17, 18 cũng đã có một số người Trung Quốc sang Việt Nam lấy vợ. Họ đã bỏ tiền của ra giúp dân địa phương nơi họ sinh sống trang trải các khoản công dịch hoặc chuộc lại ruộng đất v.v.. Vì thế nên có người nào đó cung tiến một cây cột thì cũng chẳng có gì lạ. Nhưng cách giải thích đó không làm thỏa mãn các cụ, trong bữa cơm chia tay các cụ vẫn băn khoăn. Trên đường đi sang xã khác, chúng tôi đã cùng ông chủ tịch xã và các cụ trở lại ngôi đình thôn Quang Hiển để bắc thang trèo lên đọc và in chữ ở cây cột đó. Khi tôi in dập được những chức khắc trên cây cột xuống, quả thật tôi cũng không tin được vào mắt mình nữa. Đúng là có ông sứ thần Tống Trân, nhưng là sứ Trung Hoa chữ không phải sứ ta như các cụ đã truyền ngôn.

Nguyên văn của dòng chữ này như sau:


Phật Hoa phủ Tống Trân Bắc quốc sứ thần cung tiến nhất chu” nghĩa là: “Tống Trân người phủ Phật Hoa là sứ thần Bắc quốc cung tiến một cây”.

May thay lại có một cây cột đình của đất Việt ghi lại rõ ràng hơn về ông sứ thần này: ÔNg ta là người của phủ Phật Hoa, là sứ thần của Bắc quốc. Đến đây chúng tôi lại thắc mắc: sao lại ghi là “Bắc quốc” mà không ghi tên nước là Đại Minh hay Đại Thanh? Chữ và cách ghi trên cột là do chính vị sứ thần ghi hay do dân địa phương ghi? Chữ khắc khá đẹp theo lối viết chân. Vì sao vị sứ thần này lại công đức cho làng một cây cột đình? Có quan hệ gì thân thiết chăng?

Theo thiển nghĩ của chúng tôi, có lẽ khi dân làng Thanh Lương làm đình thì cũng là lúc vị sứ thần Tống Trân đi ngang qua đây, hoặc là lúc mới vào Đại Việt, hoặc là lúc trở về chính quốc, thấy không khí tưng bừng của làng khi bắt đầu xây dựng đình, nên đã dừng ngựa ghé xem. Hoặc giả đây chính là dịch trạm nơi ông dừng chân nghỉ ngơi rồi biết dân làng đang xây đình, mến cảnh mến người, nên ông đã bỏ tiền mua một cây cột lim để công đức vào đình. Dân làng trọng tình nghĩa của ông nên đã nhận và ghi tính danh quê quán của ông để đời sau chiêm vọng. Thời điềm xây dựng ngôi đình Thanh Lương theo suy luận của chúng tôi là không vượt quá thế kỷ 18 có lẽ chỉ từ đầu thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ này, và sứ thần Tống Trân của Trung Hoa vào Việt Nam cũng chính là ở giai đoạn đó. Xin được sự kiến giải thêm của các học giả và các nhà chuyên môn về trường hợp này, và vì thế lịch sử bang giao của hai quốc gia Việt Nam và Trung Quốc lại thêm những chi tiết thú vị chưa từng được biết đến.
Chú thích:
1. Tôi và anh Dương Thái Minh là cán bộ phòng Văn tịch Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
Nguồn: Thông báo Hán Nôm học 1998 (tr497-501). 
Tác giả Phạm Thùy Vinh, là PGS. TS, hiện công tác tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

THƯ CỦA NHÀ VĂN NGUYÊN NGỌC GỬI ÔNG PHẠM QUANG NGHỊ

Thư của Nhà văn Nguyên Ngọc gửi Bí thư Thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị 

 

Đây là bức thư của tôi gửi ông Phạm Quang Nghị, Bí thư Thành ủy Hà Nội, chiều 25-8-2011. 

Định là thư ngỏ, nhưng tôi chưa công bố ngay, mà gửi trước cho vài người bạn qua email để tham khảo ý kiến. 

Không biết qua đường nào, ông Phạm Quang Nghị đã biết được thư này và tối 25-8 đã đến nhà tôi, trong khi tôi đi vắng. Sáng 26-8 ông ấy đã gọi điện thoại cho tôi, nói rằng có thể Đài Phát thanh-Truyền hình Hà Nội “đã non nớt” trong khi phát phóng sự này.

Từ đó đến nay, tôi chưa công bố bức thư này để chờ xem của Đài PT-TH Hà Nội trả lời ra sao về việc làm sai trái của họ. 

Nay đã có trả lời phủi tay và vô liêm sỉ của ông Trần Gia Thái, tôi quyết định đưa bức thư này ra trước công luận.
Nguyên Ngọc

———

Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

Ngày 25-8-2011

Kính gửi ông Phạm Quang Nghị,
Bí thư Thành ủy Đảng Cộng sản Việt Nam thành phố Hà Nội,

Tôi viết thư này cho ông vì ông là Bí thư Thành ủy Đảng Cộng sản Việt Nam của thành phố Hà Nội, là người lãnh đạo cao nhất của thành phố này, đương nhiên chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của các tổ chức và cơ quan dưới quyền lãnh đạo của ông, không chỉ là tổ chức Đảng mà cả tổ chức và cơ quan chính quyền theo cơ chế ở nước ta hiện nay.

Tối ngày 22 tháng 8 năm 2011, Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội, trong chương trình thời sự hằng ngày của mình từ 18 giờ 30 đến 19 giờ, đã cho phát một phóng sự về những cuộc biểu tình và những người biểu tình ở Hà Nội trong thời gian vừa qua, mà chính ông Nguyễn Đức Nhanh, Giám đốc Công an thành phố, đã trịnh trọng tuyên bố trong một cuộc họp báo trước đó là biểu tình yêu nước chống Trung Quốc gây hấn đe dọa nghiêm trọng nền độc lập của Tổ quốc Việt Nam. Vậy mà đến tối 22 tháng 8, Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội đã quay ngược hoàn toàn, coi các cuộc biểu tình và những người biểu tình ấy là phản động, và trong khi nói như vậy đã đồng thời đưa rõ hình ảnh ba người là Giáo sư Nguyễn Huệ Chi, Tiến sĩ Nguyễn Văn Khải và tôi.

Thưa ông,

Tôi năm nay đã 80 tuổi. Cho đến nay, trong suốt cuộc đời 80 năm qua của tôi, chưa có ai dám vu khống và xúc phạm tôi nặng nề như Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội, một cơ quan đặt dưới dưới sự lãnh đạo của Thành ủy Hà Nội, đứng đầu là ông. Ở nước ta, như chắc chắn ông biết, gọi một người là phản động cũng tức là kết tội người ấy là một tên phản quốc. Đối với tôi, đây là một sự lăng nhục cực kỳ nghiêm trọng, nhất quyết không thể tha thứ.

Đài này còn sử dụng một thủ đoạn ti tiện mà tôi nghĩ ở tuổi ông hẳn có thể ông cũng từng được biết, vào thời Cải cách ruộng đất và Nhân văn Giai phẩm, dùng những người không được bất cứ ai cử ra nhưng lại được coi là đại biểu của “quần chúng nhân dân” lớn tiếng vu khống và chửi bới chúng tôi trên một phương tiện truyền thông chính thức của Đảng bộ và Chính quyền Hà Nội.

Tôi xin hỏi:

1 – Thành ủy Hà Nội, đứng đầu là ông, có chủ trương và chỉ đạo việc thực hiện chương trình sai pháp luật và cực kỳ vô văn hóa này của Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội không?

2 – Nếu không có chủ trương và chỉ đạo đó, mà đây chỉ là hành động “tự phát” của Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội, thì ai chịu trách nhiệm về việc làm sai trái nghiêm trọng này? Thành ủy Hà Nội sẽ xử lý những người đó như thế nào?

Bởi vì sự xúc phạm của đài Hà Nội là công khai, với toàn dân, với cả nước, cả thế giới, nên bức thư này của tôi là thư ngỏ, và tôi yêu cầu câu trả lời của ông cũng phải công khai.

Tôi và tất cả những người có lương tri yêu cầu và chờ đợi câu trả lời đó.
Trân trọng,
Nguyên Ngọc