Thứ Tư, 20 tháng 7, 2011

THƯ GỬI NHÂN SĨ HÀ TÂY

18.07.2011
Thư gửi Nhân sỹ Hà tây

Lê Dũng 

 

Thưa các Cụ, các Bác, các Chú, các Anh, các Chị là người Hà tây, 

 

Tôi là một người con của Hà Tây quê lụa, Ứng hòa là quê hương bản quán, có mồ mả Tổ Tiên từ 600 năm để lại. Theo sử chép thì Ứng hòa còn có trước khi Vua Lý rời đô từ Hoa Lư về Thăng Long bây giờ.


Địa linh nhân kiệt tuy vẫn hơi nghèo so với các huyện khác bây giờ, nhưng có sao đâu - quê tôi đẹp lắm. Nếu như không sáp nhập vào Hà nội thì giờ đây, cứ sáng ra là tôi lại được nghe bài hát của Nhạc sỹ Lai Vu trên đài phát thanh truyền hình Hà tây : " Hà tây, cửa ngõ Thủ đô - cô gái Suối hai chàng trai Cầu Giẽ..."

Thực ra thì chưa bao giờ tôi có ý nghĩ là sẽ viết thư thế này cho Người Hà tây, chỉ bởi vì ngày 17.7 vừa qua, được chứng kiến cảnh nhồi da xáo thịt giữa thanh thiên bạch nhật giữa Thủ đô, nó đã khiến tôi nảy ra ý này.

Cũng bởi Hà Tây "Đất thiêng nảy sinh nhân tài " ( theo lời trong bài hát : về Hà tây) nên quê tôi đã có nhiều nhân tài và hào kiệt. Xưa là đất có hai Vua, nay không còn Vua thì có nhiều quan lớn, quan võ, quan văn, quan nghệ sỹ, quan báo...nhiều vô kể.

Giá như tôi được học nghề viết văn như anh Hoàng Minh Tường cạnh làng tôi, hay như anh Nguyễn Quang Thiều cùng huyện, hoặc là học nhạc như Lê Minh Sơn nhạc sỹ...để có thể viết văn hay, dùng năng khiếu của mình để viết ra những áng văn, dòng nhạc ai oán của hôm nay.

Thưa anh Nguyễn Đức Nhanh - Giám đốc công an Hà nội bây giờ, nhà anh cách nhà em vài cánh đồng, con cháu em lấy vợ lấy chồng bên làng anh cả lũ, kiểu nhà quê mình họ hàng nửa làng chắc kiểu gì chả có dính dáng họ hàng ( !). Anh ạ, hôm rồi em và con gái đi biểu tình bị đám lính của anh "đánh cho vỡ mặt" - như thằng Tàu nói trong clip của đài Phượng hoàng gì đấy. Lính của anh tẩn em như tẩn một tên tội phạm, ném con gái em 11 tuổi lên xe buýt như ném bao hàng.

Thưa anh, vì Tổ quốc, vì Nhân dân nên em coi đó chỉ chỉ kiếp khổ kiếp nạn của cá nhân. Chỉ khi xem tận mắt cảnh mấy lính áo xanh và một thằng áo phông vàng - mà em biết rõ nó là lính của anh Ca, phó an ninh Hoàn kiếm - đã đạp thẳng vào mặt thằng cu Đức khi nó đang bị khiêng tới cửa xe buýt. Em bàng hoàng đến đơ cả người ra, em cứ tưởng đây chỉ là giấc mơ không có thật. Tỉnh lại, em nghĩ là : có thể tới đây, Hà nội mình sẽ bị tòa án Liên hợp quốc hỏi han, đưa ra các bằng chứng chống lại loài người của lính dưới quyền của Anh. Anh hãy thử xem clip đó một lần, nếu Anh vẫn là Người Hà Tây quê lụa thì em nghĩ anh cũng có những cảm xúc như em : uất hận !

Anh ạ, mộ tổ, nhà thờ họ của Anh và em đều đang nằm ở Ứng hòa, em không bao giờ nghĩ mình sẽ rời xa Quê để đi đâu đó sống vì em là con trưởng, hương khói cho các Cụ là việc phải làm.

Anh Nhanh ạ, Anh là người mà em xin gửi những chia xẻ đầu tiên, cũng cho phép em được gửi những tâm sự này đến anh em an ninh Hà nội, nhiều người Ứng hòa và là người thân của em.

Thưa anh Uy - nguyên Phó tổng Giám đốc TTXVN, tuy anh đã về hưu nhưng em vẫn rất nhớ anh, những ngày được làm việc cùng anh cách đây chục năm, khi xây dựng tòa nhà của TTX, em được anh chỉ bảo rất ân cần. Khi ấy anh cũng đã không còn khỏe như thanh niên bọn em nhưng cũng từng họp hành giải quyết nhiều công việc với anh em dự án, không quản ngoài giờ, ngày nghỉ để phục vụ việc chung.

Em buồn lắm khi thấy TTXVN của mình đưa tin tàu hải giám của Tàu tới Trường sa mà cứ như đưa tin của ta vậy. Đã thế vài ngày sau lại dắt díu nhau sang đó, chả hiểu làm gì ?

Thưa các anh nhà văn : anh Tường, anh Thiều kính mến. Suốt từ đầu tháng 6 đến nay, chỉ vì phải xuống đường cùng bà con để biểu tình phản đối bọn Tàu xâm lược mà em không còn được cùng ra quán cà phê chỗ quận Hà đông để uống cùng quán với anh Thiều. Tiếc lắm anh ạ, nhưng ra Cột cờ em lại được gặp anh Nguyên cũng Nhà văn, bác Đào cũng Nhà văn, em được sát cánh kề vai bên các bác và các anh ấy cùng Nhân dân hô vang tiếng lòng mình, hy vọng xua đuổi được tà ma của Đất nước. Em lâu rồi không được gặp và đọc các tác phẩm của các anh viết, chả nhẽ chưa có hứng để viết sao anh ? các anh hãy xuống đường cùng em một lần, em đảm bảo nếu không có tác phẩm cả ngàn người đọc thì em xin bé bằng ...con kiến.

Thưa bạn Lê Minh Sơn nhạc sỹ, tôi mê những tác phẩm của bạn lắm. Tôi đã sởn da gà khi nghe Thanh Lam hát bài " Ôi quê tôi" do bạn sáng tác ! hay tôi và bạn là đồng niên nên cảm xúc có vài cái giống nhau ?

Được " tẩn " bởi lính của anh Nhanh hôm rồi, tôi nằm nhà hôm sau vì đau và cứ hát bài ấy của bạn. Chiều qua, khi xem clip thằng Đức sinh năm 76, kém anh em mình nửa giáp bị lính anh Nhanh "tẩn" và đạp chân vào mặt khi còn bị ba đứa khác khiêng mà mình cả đêm không ngủ. Nước mắt cứ trào ra, vợ bảo ông bị sốt rồi. Thề có trời cao đất dày, mình thương Quê, thương Hà nội quá, giữa ban ngày ban mặt mà các anh em của mình cứ giết nhau. Hay mái nhà trong "Quê tôi" của Sơn đã dột ?

Sơn hãy viết tiếp đi Sơn ơi, viết lên tiếng khóc của mình... viết đến đây quả thực mình lại khóc nữa. Nghiến răng cho hết, mong Sơn có những tác phẩm mới, trong đó có tiếng la, tiếng khóc, tiếng than, tiếng oán , tiếng còi hú, tiếng còi huýt, tiếng chửi mắng của côn đồ, tiếng phân trần của trí thức - các bậc Thày của mình, nguyên khí của Quốc gia ...đang đứng dưới đường, dưới chân Cột Cờ để Ái Quốc.

Thưa anh Diện - Tiến Sỹ Hán Nôm và các bạn đồng nghiệp, Đường Lâm quê anh là đất Vua Cha, từng viên đá ong còn ghi dấu lịch sử oai hùng. Làng cổ tuy không còn nguyên vẹn nhưng đức hạnh của những người con Đường Lâm vẫn không hề bị mai một. Suốt từ đầu tháng 6 đến giờ, cả Đất nước chứng kiến những hành động cao cả, đẹp đẽ của anh cùng các Nhân sỹ của Đất nước, liên tục lo lắng cho vận mệnh Quốc gia trước họa xâm lăng của Tàu cộng. Lịch sử đã ghi nhận và lịch sử sẽ tiếp tục ghi nhận anh và các bạn của anh, những Trí thức thực sự của Quê hương, của Đất nước - các anh không ngủ bao giờ.

Còn nhiều Người con của Hà Tây nữa mà tôi chưa có duyên được biết, được gặp. Xin thưa rằng : Quê hương chúng ta đang gặp hoạn nạn, giặc chưa đến mà đồng bào đã bị giết bởi đồng bào, các bạn nghĩ sao? các bạn sẽ nghĩ gì nếu các bạn có những đứa con nghịch tử, chỉ biết cướp thuê, đánh thuê, bóp cổ ngay cả Ông Bà Cha Chú Anh Chị của mình?

Tôi viết mà vẫn lo mình thô lỗ, không học viết nên cứ tào lao. Chỉ mong gửi đến những Nhân sỹ, những người con của Quê hương sẽ đọc được những tâm tình này. Để cùng suy nghĩ, chia xẻ, hành động đúng với lương tâm, đúng với luật pháp, đừng để mình phải hổ thẹn với tiền nhân và con cháu chỉ vì chút danh hão, vài đồng tiền dơ bẩn.

Tôi thấy bên Pháp họ đặt tượng Sacozi và đúc dưới chân dòng chữ: "Đừng vì tiền mà làm hỏng thanh danh của mình !". Câu đó xin được chép để tôi mang về treo trên tường, cho con cái đọc hàng ngày cùng với dòng chữ: "Mình là Người Hà Tây quê lụa".

Vài dòng kính gửi các Nhân sỹ, gửi Người Hà tây cho vợi cõi lòng. Nay Hà Tây không còn nhưng Hà Nội sẽ là Quê mới, truyền thống đất thiêng nảy sinh nhân tài sẽ được hòa chung với Hà nội thanh lịch hào hoa, ngàn năm văn hiến. Để không còn cảnh người giết người giữa ban ngày, cảnh sát " tẩn" Dân chỉ vì Dân Ái Quốc.
.
Kính thư,
Lê Dũng
Nguồn: Lê Dũng-Blog

HÃY NHANH ĐẾN ĐỊA ĐIỂM PHÂN PHỐI ÁO THUN ỦNG HỘ NGƯ DÂN BÁM BIỂN


Địa điểm phân phối áo thun ủng hộ ngư dân bám biển tại Hà Nội:
Số 19C Lê Văn Lương - Quán cafe Cơm Việt - Hà Nội. 

Ngoài ra khách hàng có thể chuyển tiền vào TK và cầm phiếu chuyển tiền đến nhận áo tại Địa chỉ trên. Thông tin TK như sau:

1. TK Công ty Cổ phần TM & DV Sài Gòn Truyền Thông.
Số TK 007.100.2381488 NH VCB chi nhánh TP HCM

2. TK Qũy Hỗ trợ Phát triển Giáo Dục
Số TK 001.234.230001 NH Đông Á Chi nhánh Đinh Tiên Hoàng TP HCM.

Trân trọng cảm ơn các anh chị đã ủng hộ ngư dân bám biển!
_______________
Xin chân thành cảm ơn một nhân sĩ Sài Gòn đã tặng 50 áo phông 
cho những người tham gia biểu tình tại Hà Nội.

ĐỀ NGHỊ XEM LẠI HOẠT ĐỘNG CỦA VĂN PHÒNG QUỐC HỘI

Ông Trần Đình Đàn, Chủ nhiêm VP Quốc hội. Ảnh: PL tp HCM

ĐỀ NGHỊ XEM LẠI HOẠT ĐỘNG CỦA VĂN PHÒNG QUỐC HỘI

Thưa chư vị, 

Theo báo Pháp luật TP Hồ Chí Minh: Chiều 19-7, tại cuộc họp báo công bố chương trình kỳ họp thứ nhất, Quốc hội (QH) khóa XIII (từ ngày 21-7 đến 8-6) do Văn phòng QH tổ chức, ông Trần Đình Đàn, Chủ nhiệm Văn phòng QH, đã trả lời các câu hỏi của báo chí xung quanh những nội dung quan trọng của kỳ họp lần này. 

Trong đó có câu hỏi như sau:
Hỏi: Thưa ông, hiện trên mạng đang lưu truyền bản kiến nghị của các nhân sĩ về bảo vệ chủ quyền và phát triển đất nước trong tình hình hiện nay gửi đến QH, Ủy ban Thường vụ QH. Vậy đến nay QH đã nhận được chưa và việc giải quyết kiến nghị này như thế nào?
Trả lời: Đến nay chúng tôi chưa nhận được bản kiến nghị trên nên chưa thể nói gì được.
Sáng nay, 20 tháng 7 năm 2011, Giáo sư Chu Hảo và tôi đã đến Bưu điện - nơi chúng tôi gửi Kiến Nghị bằng đường Phát chuyển nhanh, thì được các nhân viên Bưu điện cho biết:

1- Phong bì thư chứa 16 thư gửi cho các ủy viên Thường vụ Quốc hội đã được chuyển đến Văn phòng Quốc hội lúc 10h ngày 14 tháng 07 năm 2011. Người ký nhận thư là Ông KHÔI.

2- Phong bì thư chứa 02 thư gửi cho ông Đào Trọng Thi và bà Trương Thị Mai (đều là ủy viên Thường vụ Quốc hội) đã được chuyển đến nơi làm việc là 35 Ngô Quyền lúc 10h ngày 14 tháng 07 năm 2011. Người ký nhận thư là bà NHUNG.

Chúng tôi đang yêu cầu phía Bưu điện cung cấp biên bản ký nhận thư của Văn Phòng Quốc hội.

Chúng tôi cũng đã hỏi và đã có 1 số vị Ủy viên Thường vụ Quốc hội xác nhận đã nhận được Bản Kiến nghị Về Bảo vệ và Phát triển đất nước trong tình hình hiện nay của 20 nhân sĩ trí thức.

13h50 ngày 20.07.2011, Bưu điện cung cấp chữ ký xác nhận của
Văn Phòng Quốc hội:

Ông Khôi ở Văn Phòng Quốc hội ký xác nhận đã nhận Kiến nghị
 

Bà Nhung xác nhận đã nhận bản Kiến nghị gửi Ông Đào Trọng Thi và bà Trương Thị Mai
 Như vậy, ở đây cần phải xem lại hoạt động của Văn phòng Quốc hội và trách nhiệm của Ông Trần Đình Đàn - Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội!
Chu Hảo - Nguyễn Xuân Diện


BÁO ĐẠI ĐOÀN KẾT LÊN TIẾNG VỀ "CÔNG HÀM PHẠM VĂN ĐỒNG"

Công hàm 1958 với chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam (20/07/2011)

Gần đây Trung Quốc luôn rêu rao cái gọi là họ có chủ quyền không thể tranh cãi đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Việc Trung Quốc diễn giải nội dung Công hàm ngày 14-9-1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng như là một chứng cứ cho thấy Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là hết sức phiến diện và xuyên tạc nội dung, ý nghĩa của bản Công hàm đó, hoàn toàn xa lạ với nền tảng pháp lý của Việt Nam cũng như luật pháp quốc tế, bất chấp thực tế khách quan của bối cảnh lịch sử đương thời. Có thể nói, giải thích xuyên tạc Công hàm 1958 là một trong chuỗi những hành động có tính toán nhằm tạo cớ, từng bước hợp thức hóa yêu sách chủ quyền phi lý của họ đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.

 
Đảo Núi Le thuộc quần đảo Trường Sa

Theo lý giải của Trung Quốc, ngày 4 tháng 9 năm 1958, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đã công khai tuyên bố với quốc tế quyết định của Chính phủ Trung Quốc về hải phận 12 hải lý kể từ đất liền của Trung Quốc và các đảo ngoài khơi, bao gồm cả quần đảo Tây Sa và Nam Sa (tức quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam). Sau đó, ngày 14-9-1958, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) Phạm Văn Đồng gửi Công hàm cho Thủ tướng Chu Ân Lai, nguyên văn như sau:
"Thưa Đồng chí Tổng lý,
Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa trên mặt biển. Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng”.
Cần phải thấy rằng, các tuyên bố nói trên của Trung Quốc cũng như của VNDCCH ra đời trong bối cảnh có nhiều chuyển biến phức tạp và cấp bách đối với Trung Quốc về tình hình lãnh thổ trên biển theo luật pháp quốc tế cũng như diễn biến căng thẳng của vấn đề quân sự xung quanh eo biển Đài Loan. Năm 1956, Liên Hợp Quốc bắt đầu tiến hành các hội nghị quốc tế bàn về Luật Biển, sau đó một số hiệp định được ký kết vào năm 1958, tuy nhiên vẫn chưa làm thỏa mãn yêu sách về lãnh hải của một số quốc gia. Từ đầu thế kỷ XX, nhiều quốc gia đã bắt đầu chú ý tới nguồn lợi to lớn từ khoáng sản và tài nguyên biển, bộc lộ ý đồ mở rộng chủ quyền trên biển. Trung Quốc, dù trong lịch sử ít quan tâm đến biển, cũng bắt đầu chú ý đến việc mở mang, kiếm tìm những đặc quyền trên biển. Mặc dù lúc đó chưa phải là thành viên của Liên Hợp Quốc, nhưng Trung Quốc cũng bắt đầu chú ý đến việc lên tiếng với cộng đồng quốc tế nhằm giải quyết các vấn đề trên biển theo hướng có lợi cho Trung Quốc. Trong chiến lược cho tương lai, thì việc cạnh tranh trên biển, cũng như tìm kiếm những nguồn tài nguyên trên biển là một vấn đề được Trung Quốc đặt ra. Trên thực tế, cũng từ đầu thế kỷ XX, Trung Quốc đã hình thành ý định nhòm ngó các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Rõ ràng, việc nhòm ngó các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam từ thế kỷ XX đã nằm trong chiến lược "lấn sân” của Trung Quốc về tham vọng mở rộng biên giới quốc gia trên biển.

Ngày 26-5-1950, chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, Tổng thống Hoa Kỳ Harry S. Truman đã ra lệnh cho Hạm đội 7 tiến vào eo biển Đài Loan, ngăn chặn cuộc tấn công của Trung Quốc nhắm vào các đảo trên eo biển Đài Loan. Với hành động này, Mỹ đã thực sự bảo hộ Đài Loan, mặc cho Trung Quốc kịch liệt lên án. Để tỏ rõ quyết tâm giải phóng Đài Loan, ngày 3-9-1954, Trung Quốc đã tấn công trừng phạt đối với các hòn đảo ven biển như Kim Môn, Mã Tổ. Các nhà chép sử gọi đây là cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ nhất. Ngày 11-8-1954, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai tuyên bố sẽ "giải phóng” Đài Loan, và tăng cường pháo kích vào hai đảo Kim Môn và Mã Tổ. Ngày 12-9-1954, Chủ tịch Hội đồng Liên quân Hoa Kỳ đưa ra dự tính tấn công Trung Quốc bằng vũ khí nguyên tử nhưng Tổng thống Eisenhower đã do dự sử dụng vũ khí nguyên tử cũng như sự liên can của quân đội Hoa Kỳ vào cuộc chiến này. Năm 1958, tiếp tục xảy ra cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai. Ngày 23-8-1958 Trung Quốc đột ngột tăng cường nã pháo vào đảo Kim Môn. Theo Hiệp định Phòng thủ tương hỗ giữa Đài Loan-Hoa Kỳ, Tổng thống Eisenhower đã ra lệnh cho tàu chiến Hoa Kỳ đến bảo vệ đường tiếp tế hậu cần từ đảo Đài Loan đến 2 đảo tiền tiêu Kim Môn và Mã Tổ. 

Ngoài bối cảnh "phức tạp và cấp bách” đối với Trung Quốc như đã nêu trên, theo Thạc sĩ Hoàng Việt (Quỹ Nghiên cứu Biển Đông), Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng ra đời trong bối cảnh quan hệ đặc thù VNDCCH –Trung Quốc lúc đó "vừa là đồng chí vừa là anh em”. Năm 1949, bộ đội Việt Nam còn tấn công và chiếm vùng Trúc Sơn thuộc lãnh thổ Trung Quốc từ tay các lực lượng khác rồi trao trả lại cho Quân giải phóng Trung Quốc. Năm 1957, Trung Quốc chiếm giữ đảo Bạch Long Vĩ của Việt Nam từ tay một số lực lượng khác, rồi sau đó cũng trao trả cho Việt Nam. Điều này cho thấy quan hệ đặc thù của hai nước VNDCCH – Trung Quốc lúc bấy giờ. Do vậy, trong tình hình lãnh thổ Trung Quốc đang bị đe dọa chia cắt, cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai khiến Hải quân Hoa Kỳ đưa tàu chiến vào can thiệp, việc Trung Quốc ra tuyên bố về lãnh hải bao gồm đảo Đài Loan trước hết nhằm khẳng định chủ quyền trên biển của Trung Quốc trong tình thế bị đe dọa tại eo biển Đài Loan. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn không quên mục đích "sâu xa” của họ trên Biển Đông nên đã "lồng ghép” thêm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam vào bản tuyên bố. Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng xuất phát từ mối quan hệ rất đặc thù với Trung Quốc trong thời điểm VNDCCH đang rất cần tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của các quốc gia trong khối xã hội chủ nghĩa bấy giờ và là một cử chỉ ngoại giao tốt đẹp thể hiện quan điểm ủng hộ của VNDCCH trong việc tôn trọng lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc trước các diễn biến quân sự phức tạp trên eo biển Đài Loan. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã phát biểu những lời ủng hộ Trung Quốc trong hoàn cảnh hết sức khẩn trương, chiến tranh chuẩn bị leo thang, Hạm đội 7 của Mỹ đang tiến vào eo biển Đài Loan và đe dọa Trung Quốc.
 
Nội dung Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng được thể hiện rất thận trọng, đặc biệt là không hề có việc tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bởi, hơn ai hết, chính Thủ tướng VNDCCH thấu hiểu quyền tuyên bố về lãnh thổ quốc gia thuộc thẩm quyền cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là Quốc hội, và việc bảo vệ tòan vẹn lãnh thổ quốc gia luôn luôn là mục tiêu hàng đầu đối với Nhà nước và nhân dân Việt Nam, nhất là trong hoàn cảnh ra đời của Công hàm như đã nêu trên. Công hàm 1958 có hai nội dung rất rõ ràng: Một là, Chính phủ VNDCCH ghi nhận và tán thành việc Trung Quốc mở rộng lãnh hải ra 12 hải lý; Hai là, Chính phủ VNDCCH chỉ thị cho các cơ quan nhà nước tôn trọng giới hạn lãnh hải 12 hải lý mà Trung Quốc tuyên bố. Trong Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có từ nào, câu nào đề cập đến vấn đề lãnh thổ và chủ quyền, càng không nêu tên bất kỳ quần đảo nào như Trung Quốc đã nêu. Do vậy, chỉ xét về câu chữ trong một văn bản có tính chất ngoại giao cũng dễ dàng nhận thấy mọi suy diễn cho rằng Công hàm 1958 đã tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và coi đó là bằng chứng khẳng định Việt Nam đã thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này là xuyên tạc lịch sử và hoàn toàn không có cơ sở pháp lý.
 
Tại Hội nghị San Francisco 1951, các quốc gia tham dự đã bác bỏ yêu sách về chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cũng tại hội nghị này, Việt Nam đã long trọng tuyên bố chủ quyền lâu đời và liên tục của mình trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong phiên họp toàn thể mà không có bất kỳ sự phản đối hay ý kiến gì khác của tất cả các quốc gia tham dự. Điều đó có nghĩa là kể từ năm 1951, cộng động quốc tế đã thừa nhận chủ quyền lịch sử và pháp lý của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Những tuyên bố đơn phương về chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này theo luật pháp quốc tế là vô hiệu. Hiệp định Genève 1954, mà Trung Quốc là một nước tham gia chính thức, cũng thừa nhận chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về người Việt Nam. Các điều khoản trong Hiệp định cũng yêu cầu các quốc gia tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng chủ quyền độc lập, nền thống nhất quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Do vậy, phần tuyên bố về chủ quyền của Trung Quốc liên quan tới hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam trong bản tuyên bố ngày 4-9-1958 về cơ sở pháp lý quốc tế đương nhiên được xem là không có hiệu lực. Trong Công hàm 1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng không hề đề cập đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vì điều đó là không cần thiết, bởi theo Hiệp định Genève 1954, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm phía Nam vĩ tuyến 17 tạm thời thuộc quyền quản lý của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Trong thời điểm đó, dưới góc độ tài phán quốc tế, thì Chính phủ VNDCCH không có nghĩa vụ và quyền hạn hành xử chủ quyền tại hai quần đảo này theo luật pháp quốc tế. Công hàm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đương nhiên chỉ tán thành những tuyên bố của Trung Quốc có nội dung hợp pháp được cộng đồng quốc tế thừa nhận trên cơ sở luật pháp quốc tế cho đến giai đoạn đó. Một phần nội dung của bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền quốc gia về lãnh thổ của Việt Nam, đồng thời cũng vi phạm nghiêm trọng các cơ sở pháp lý về chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà cộng đồng quốc tế đã thừa nhận cũng như đã nhiều lần tái thừa nhận một cách minh thị là thuộc chủ quyền của Việt Nam. Chính phủ VNDCCH trong bối cảnh quan hệ hữu nghị rất đặc thù với Trung Quốc đã khẳng định lập trường ghi nhận, tán thành tuyên bố giới hạn 12 hải lý về lãnh hải của Trung Quốc, còn những nội dung cụ thể diễn giải vượt quá phạm vi chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc theo các hiệp ước quốc tế đã không được đề cập tới như là một sự mặc nhiên thừa nhận sự vô hiệu của nó dưới ánh sáng của pháp luật quốc tế. Trong khi đó, Chính quyền VNCH, theo Hiệp định Genève 1954, đã liên tục thực thi chủ quyền lâu đời của người Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng các văn bản hành chính nhà nước cũng như bằng việc triển khai thực thi chủ quyền thực tế trên hai quần đảo này. Đỉnh cao của sự khẳng định chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong giai đoạn này là trận hải chiến quyết liệt của Hải quân VNCH chống lại sự xâm lược của tàu chiến và máy bay Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa năm 1974.
 
 
Bức Công hàm ngày 14-9-1958 của
Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa
 do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký

Trong bối cảnh lịch sử đặc biệt nêu trên càng thấy rõ một sự thật hiển nhiên là Công hàm ngày 14-9-1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đơn giản chỉ ghi nhận lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc, không hề nhắc lại các nội dung mập mờ liên quan đến các quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam. Về thực chất, Công hàm 1958 thể hiện một thái độ chính trị, một cử chỉ hữu nghị với tuyên bố giới hạn lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc. Thực là phi lý, nếu cố tình suy diễn và xuyên tạc (như lập luận phía Trung Quốc), cho rằng Thủ tướng Phạm Văn Đồng, người con ưu tú của dân tộc, lại ký văn bản từ bỏ lãnh thổ và chủ quyền của đất nước trong khi chính ông và cả dân tộc Việt Nam đã chiến đấu hết mình để giành độc lập, tự do. Có lẽ cần phải nhấn mạnh rằng tất cả những hành động ngoại giao của Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong Công hàm 1958 có thể hiểu không phải là ông không nhìn thấy mọi ý đồ của Trung Quốc đối với cách mạng Việt Nam vì ông đã có kinh nghiệm trong bàn đàm phán Genève năm 1954, khi mà Trung Quốc đã có không ít động thái rất bất lợi cho VNDCCH. Nội dung Công hàm ngày 14-9-1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng phù hợp với hoàn cảnh và mối quan hệ đặc thù giữa VNDCCH và Trung Quốc bấy giờ, đồng thời cũng hàm chứa thái độ không bao giờ từ bỏ chủ quyền của người Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đó cũng là quan điểm nhất quán của Việt Nam, bởi từ năm 1945 đến nay, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Quốc hội Việt Nam Cộng hòa, Mặt trận DTGPMN Việt Nam và sau đó là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và hiện nay là Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam chưa bao giờ lên tiếng hoặc ra nghị quyết từ bỏ chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Một cơ sở nữa trên phương diện pháp lý, nước VNDCCH lúc đó không trực tiếp quản lý đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trước năm 1975, các quốc gia và lãnh thổ tranh chấp gồm: Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam Cộng hòa và Philippines. Như vậy, những lời tuyên bố của VNDCCH xem như lời tuyên bố của một quốc gia thứ ba không có ảnh hưởng đến vụ tranh chấp. Tuy nhiên, có tác giả đã cố tình nêu thuyết "estoppel” để suy diễn những lời tuyên bố đó có hiệu lực bó buộc đối với Việt Nam.

Theo luật quốc tế, không có một văn bản pháp lý nào có thể gắn cho những lời tuyên bố đơn phương một tính chất bó buộc, ngoại trừ thuyết "estoppel”. Mục đích chính của nó ngăn chặn trường hợp một quốc gia có thể hưởng lợi vì những thái độ bất nhất của mình, và do đó, gây thiệt hại cho quốc gia khác. Vì vậy, estoppel phải hội đủ các điều kiện chính: (1) Lời tuyên bố hoặc hành động phải do một người hoặc cơ quan đại diện cho quốc gia phát biểu và phải được phát biểu một cách minh bạch; (2) Quốc gia nại "estoppel” phải chứng minh rằng mình đã dựa trên những lời tuyên bố hoặc hoạt động của quốc gia kia, mà có những hoạt động nào đó, hoặc không hoạt động; (3) Quốc gia nại "estoppel” cũng phải chứng minh rằng, vì dựa vào lời tuyên bố của quốc gia kia, mình đã bị thiệt hại, hoặc quốc gia kia đã hưởng lợi khi phát biểu lời tuyên bố đó; (4) Nhiều bản án còn đòi hỏi lời tuyên bố hoặc hoạt động phải được phát biểu một cách liên tục và lâu dài. Thí dụ: bản án "Phân định biển trong vùng Vịnh Maine”, bản án "Những hoạt động quân sự và bán quân sự tại Nicaragua”, bản án "Ngôi đền Preah Vihear”...

Áp dụng những nguyên tắc trên của estoppel vào những lời tuyên bố của VNDCCH, chúng ta thấy thiếu điều kiện 2 và 3 đã nêu ở trên. Năm 1956, năm 1958 và năm 1965, Trung Quốc đã không có thái độ nào, hoặc thay đổi thái độ vì dựa vào lời tuyên bố của VNDCCH. Trung Quốc cũng không thể chứng minh được rằng mình bị thiệt hại gì do dựa vào những lời tuyên bố đó. VNDCCH cũng không được hưởng lợi gì khi có những lời tuyên bố đó.

Trong suốt quá trình thực hiện mưu đồ bá chủ trên Biển Đông, Trung Quốc đã không ít lần đưa ra các tài liệu xuyên tạc lịch sử, biến có thành không, biến không thành có, tung hỏa mù để cố tình làm sai lệch nhận thức của chính nhân dân Trung Quốc cũng như của cộng đồng quốc tế về vấn đề này theo hướng có lợi cho mưu đồ của Trung Quốc. Tuy nhiên, trước những bằng chứng hiển nhiên của sự thật lịch sử và dưới ánh sáng của luật pháp quốc tế những hành vi xuyên tạc, tung hỏa mù, cố tình làm cho cộng đồng quốc tế ngộ nhận càng khiến cho Trung Quốc lộ rõ âm mưu cũng như thủ đoạn của họ trong suốt quá trình áp đặt ý đồ "nuốt trọn” Biển Đông, theo kiểu "miệng nói hòa bình không xưng bá, tay làm phức tạp hoá tình hình”.

Nhóm PV Biển Đông

Thứ Ba, 19 tháng 7, 2011

NGUYỄN QUANG LẬP: VĂN TẾ BIỂU TÌNH

Văn tế biểu tình

Nguyễn Quang Lập

 
Hỡi ôi! 

Hải đảo- Biển Đông; lòng dân trời tỏ. 

Mười năm công đèn sách, chưa chắc còn danh nổi tợ phao; 
một trận chống Tàu, tuy là mất tiếng vang như mõ. 

Nhớ linh xưa: 

Nhà báo nhà văn;
giáo sư tiến sĩ. 

Chưa quen tụ tập, đâu biết biểu tình; chỉ nghiên cứu sinh, ở trong trường bộ.
Cầm bút nghiên, cầm đèn sách, tay vốn quen làm; tập phản đối, tập đấu tranh, mắt chưa từng ngó. 

Tiếng hải tặc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa; 
mùi bốn tốt vấy vá đã ba năm, ghét nhu nhược như nhà nông ghét cỏ. 

Bữa thấy ngư dân bị trấn lột, muốn tới ăn gan; ngày xem tàu Hải giám chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
Biển Đông chủ quyền sáng rõ, há để ai bịa đặt lưỡi bò; hai quần đảo lớn của ta, đâu dung lũ cướp ngày chiếm chỗ. 

Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức biểu tình; chẳng thèm đắp tai cài trốc, chuyến này quyết giương cao cờ, biểu ngữ. 


Khá thương thay: 

Vốn chẳng phải thanh niên trai trẻ, theo dòng phản đối đấu tranh; chẳng qua là tiến sĩ, giáo sư, mến nghĩa xuống đường đi bộ. 

Mấy chục ông nhân sĩ, nào đợi tập rèn; vài trăm chú sinh viên, không chờ bày bố. 

Ngoài cật có một manh cờ đỏ, nào đợi mang học vị học hàm; trong tay cầm biểu ngữ, băng rôn, chi nài sắm huân chương, giải thưởng. 

 Biểu ngữ viết bằng than đen mực đỏ, vạch mặt chỉ tên bọn hải tặc kia; băng rôn dùng bằng tấm vải thô, phản đối lũ bá quyền nọ. 

Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, cùng nhau lướt tới, cảnh sát cũng như không; nào sợ lính cơ động đám nhỏ, đám to, dấn bước xông lên, liều mình như chẳng có. 

Kẻ hô vang, người hét ngược, làm cho Khương Du, Chiêu Húc hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ em Phương Nga líu lưỡi. 
.
Nguyễn Huê Chi, Phạm Duy Hiển, Nguyễn Quang A

Ôi !
Những lăm Nhà nước đồng thanh; đâu biết biểu tình vội bỏ. 

Một chắc chủ quyền rằng chữ quyết, nào hay bốn tốt bọc chữ vàng; trăm năm xã tắc ấy chữ thiêng, đâu ngờ chẳng thiêng bằng chế độ. 

Đoái đường Điện Biên Phủ cỏ cây mấy dặm sầu giăng; nhìn chốn Bờ Hồ, già trẻ hai hàng lụy nhỏ.
Chẳng phải án cướp, án gian đày tới, mà công an vây bắt cho cam tâm; vốn không ai xúi dục đấu tranh, bị đánh đập rủa nguyền cho đáng số. 
.
Công an đạp vào mặt người biểu tình
Đây chính là người công an đó, người chỉ tay chưa rõ là Tàu hay Việt

Nhưng nghĩ rằng: 

Tấc đất biên cương ơn Tiên tổ, tài bồi cho nước nhà ta; Hải đảo- Biển Đông Tổ quốc, mắc mớ chi ông cha nó. 

Vì ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương; vì ai xui đồn lũy tan tành, xiêu mưa ngã gió. 

Sống làm chi theo quân tả đạo, quăng vùa hương xô bàn độc, thấy lại thêm buồn; sống làm chi ở chốn quan trường, chia dự án, gặm biên cương, nghe càng thêm hổ. 

Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh; hơn còn mà chịu chữ đầu Tàu, ở với lưu manh rất khổ. 
.

Nguyễn Xuân Diện

Ôi thôi thôi !

Phạm Duy Hiển đau chân dân dìu cõng, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm; 
Nguyễn Quang A bền bỉ giấu hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ. 

Đau đớn bấy, 

Hồng Kiên lên xe bus, bọn nít ranh gọi ông lão bằng thằng; não nùng thay, 
Xuân Diện chạy tìm đoàn, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ. 

Người cõng GS Phạm Duy Hiển

Ôi !
Một trận khói tan, nghìn năm tiết rỡ. 

Binh tướng nó hãy đóng ở đảo Hoàng Sa, ai làm nên bốn phía mây đen; ông cha ta còn ở Bản Giốc, Biển Đông, ai cứu đặng một phường con đỏ. 

Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ. 

Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia; sống vì dân, thác cũng vì dân, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ ấm đủ đền công đó. 

Nước mắt biểu tình lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân; cây hương nhân sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ. 

Hỡi ôi thương thay !
Có linh xin hưởng. 

(Nhại theo Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu)

Nguồn: Blog Quê Choa.

TƯỜNG THUẬT CỦA BÁC GỐC SẬY: "NÀO MÌNH CÙNG LÊN XE BUÝT"

Trời nắng đẹp chứ không sụt sùi mưa như sáng hôm qua.

7g15 nhà cháu ra khỏi nhà, trực chỉ Cột cờ Hà Nội. Đề phòng quán cà phê ở đấy đóng cửa, dọc đường nhà cháu mua hộp xôi, vừa đi vừa múc.

Đến nơi thấy vắng hoe hết cả. Quán Highland coffee đóng cứa thật. Đi qua Cột cờ đến quán cà phê 32A Điện Biên Phủ, nhà cháu ngồi ngay vỉa hè gọi 1 cốc. Nhận thấy xung quanh toàn người KHÔNG QUEN.Có 2 bác gái đi ta-xi đến, vào xin ngồi cùng bàn vì có quạt. Thấy hết bác này đến bác kia điện thoại hỏi ai đó: Mày đâu rồi? Tao đang ở 32A ĐBP, đến nhanh lên!
Không lẽ họ hẹn nhau đi biểu tình? Chả tiện hỏi, vì nhớ điều bác  Thùy Linh sexy tất cả… bảo nên nhà cháu cũng “quyết tâm từ nay sẽ đa nghi”. Chỉ biết một bác lấy từ trong túi xách ra 1 cái dây chuyền có mặt đá to tổ bố, vừa đeo vừa bảo: – Hôm nay sẽ nhiều công an lắm nên không lo mất.

(Hy vọng là bác ấy không đi tuần hành yêu nước vì sau đó thấy nhiều người kêu mất rất nhiều thứ.)

Ăn hết điếu thuốc thì đã 8g kém 10, nhà cháu lững thững quay lại. Vẫn vắng hoe, kể cả lược lượng bảo vệ (LLBV)

Đành bỏ 10.000đ mua vé vào cổng Bảo tàng Quân đội. Hôm nay gió to, quốc kỳ bay ngạo nghễ.

Từ trên tầng Hai, nhà cháu thấy có cái biển viết: “Khu vực cấm” BẰNG TIẾNG VIỆT đặt ngay trước biển đá khắc chữ “Công viên V.I. Lê Nin”.  Kể ra có tí ‘ĐỐI phó NGOẠI quốc” vậy cũng đỡ nhục quốc thể.

Trước cửa Bảo tàng Quân đội xuất hiện 02 chiếc xe búyt, trước chỗ bác tài có tấm biển “Xe về bến”. Ô hay, “về bến” sao lại ỗ ở đây? Bên hông BTQĐ cũng có 1 chiếc nữa, phục sẵn.

8g15 vẫn vắng hoe, nhà cháu lượn vào trong phòng trưng bày. Lần đàu tiên vào đây, nhà cháu cứ “lăn tăn” trước cái tủ kính đựng kèn đồng của dàn nhạc đã chơi  bài “Tiến quân ca” ngày 02/9/1945. Giá có bộ này mang đi tuần hành thì tốt. Ngước lên thấy ảnh và một bảng viết chữ TO một phần bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh: “Nước Việt Nam có quyền hưởng Tự do và Độc lập và sự thật đã thành một nước Tự do Độc lập. Tòan thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lương, tính mạng, của cải để giữ vững quyền Tự do và Độc lập ấy“.



Đúng lúc vừa đọc xong những lời hào hùng ấy, nhà cháu nghe tiếng còi tu huýt vang lên từ dưới đường Điện Biên Phủ.

Rồi! Chạy vội xuống thấy mọi người đã đến tự lúc nào nhưng không vào quá được đường Nguyễn Tri Phương chạy ngay sát Bảo tàng Quân đội.



Quốc kỳ, biểu ngữ được trương lên. Tiếng hô: Đả đảo TQ đánh cướp của ngư dân Việt Nam, Hoàng Sa-Trường Sa – Việt Nam vang lên.

LLBV ập tới. Từ bên kia đường, loa trên chiếc xe của CS113 yêu cầu bà con giải tán, “BIỂN ĐÔNG ĐÃ YÊN ỔN”. Mấy bác già vặc lại: Nó vừa đánh, người cướp cá kia sao lại nói YÊN ỔN được?

Tối qua, nhà cháu ngồi tự kẻ lên phần lưng cái áo phông đỏ, trước ngực có ngôi sao vàng, một câu hỏi: CHÚNG TA LIỆU CÓ CÒN ĐƯỢC ĂN CÁ BIỂN ĐÔNG?
Nghe LOA chướng quá, nhà cháu quay lưng áo về phía đó.Chả biết có đọc không nhưng không thấy LOA nói câu kia nữa.


Chừng mươi phút, ngay sau tuyên bố không giải tán sẽ dùng biện pháp mạnh một chiếc xe buýt được điều ra. Mọi người không đứng TỤ TẬP nữa mà bắt đầu di chuyển để tuần hành.
Nhưng một đám thanh niên đeo băng đỏ nhào vào túm, đẩy mọi người lên xe buýt.
Có tới 10 người mặt mũi hằm hằm túm và đẩy bằng được chú em Nguyễn Văn Phương (cùng họ cùng tên, khác mỗi tên đệm với vị Tổng đốc đã tuẫn tiết vì Hà Nội ) lên xe.
Khẩu hiệu bị giật, xé. Cả quốc kỳ cũng bị chúng giằng, vứt xuống đất.
Lốc-gơ Lê Dũng nhào xuống nhặt lên bị đẩy đạp dúi dụi, văng mất cả kính đeo mắt.
Mọi người quây lại nhưng số lượng quá ít so với lực lượng kia và cả CSCĐ nên một số bị dồn lên xe một cách rất thô bạo.


Hơ, nhưng có chú em bị nhồi lên xe lại toe tét cười, vẫy nhà cháu qua cửa kính!

Chiếc xe búyt ấy chuyển bánh thì những người còn lại cũng rời khỏi ‘khu vực bảo vệ’ đi tuần hành. Nãy đã ít, giờ còn ít hơn, cả đoàn đâu chỉ được hơn 20 người.Vẫn đi!





Nhà cháu nhận ra vợ chồng GS-TS Nguyễn Đông Yên, nghệ sỹ đường phố Tạ Trí Hải… nhưng cũng được gặp khá nhiều người chưa từng gặp ở các lần trước. Vẫn đủ cả nam phụ lão ấu.

Đi đến chắn tàu Cửa Nam, một đội LLBV chắn ngang đường, nhất quyết không cho đoàn tuần hành đi tiếp. Một bác già mặc đồng phục dân phòng, miệng vẫn ngậm cái tăm, quát bảo mọi người: Quay lại! Ô hay, đằng kia thì LLBV đuổi không cho TỤ TẬP ở KHU VỰC BẢO VỆ, đến đây lại bảo quay lại là sao? Nhưng nhìn bác ấy buồn cười quá, nhà cháu góp ý nhẹ: Xếp ơi, ra lệnh gì thì cũng nên nhổ cái tăm đi đã!  Bác kia gườm mình rồi quay đi nhưng vẫn không nhổ cái tăm ra. Khổ, tiếc gì cái tăm chứ, mất hết cả sang trọng!

Rồi lại một chiếc xe buýt trờ tới.
Lại lực lượng thường phục đeo băng đỏ xô đẩy, dồn mọi người lên xe. Mải giúp đỡ bà con tránh những đối xử thô bạo, nhà cháu không thể ghi hình.


Tuy nhiên, nhiều người khác đã chộp được hình ảnh một thanh niên BỊ KHIÊNG vứt lên xe.
Buồn nhất là cái ảnh này là của phóng viên hãng tin AP chụp, nhà cháu lấy được trên mạng.
Ôi, thế giới người ta sẽ nghĩ sao về truyền thống CÙNG MỘT BỌC (từ Hán-Việt là Đồng Bào) của người Việt Nam mình đây. Đau xót quá !

Một bác gái bị đẩy rất thô bạo lên xe, gãy đôi cả chiếc ô đang cầm. Bác này nằng nặc đòi xuống. Vì:”Tao đang trên đường đến bệnh viện K khám bệnh sao chúng mày bắt tao lên đây?”. Nhà cháu cũng nói giúp để bác ấy được xuống nhưng một thanh niên mặc thường phục trợn mắt quát: “Mày đi vào trong!”. Tôi nhắc nhở rằng bác ấy cao tuổi rồi, không được phép ăn nói giọng đó. Lập tức, nhà cháu cũng bị quát: “Ông đừng lắm chuyện, đi vào!”

Một bác trai vấp ngã trên bậc lên xuống vì bị đẩy quá mạnh còn bị đạp thêm một phát.

Khi có khoảng 20 người trên xe, lực lượng thường phục đeo băng đỏ rút. Trên xe chỉ có một chú cảnh sát trẻ măng mặc sắc phục đứng cạnh bác tài. Sau, khi đếm lại, mọi người xác định chỉ có 17 người thuộc đoàn tuần hành, còn lại là các chú thuộc LLBV mặc thường phục, ngồi tít cuối xe.

Tếu nhất là bác trai vừa bị đạp ngã kêu toáng lên bắt đền vì bị mất bao thuốc lá. Chú cảnh sát mặc sắc phục chắc quá xấu hổ, rút bao thuốc của mình đưa, bác trai ấy không cầm: “Tao hút Vinataba, không hút thuốc này”.

Chiếc xe buýt chở chúng tôi được lệnh vượt qua cả đèn đỏ khiến một người đi đường ngã lăn, may không sao. Một lúc sau, nhà cháu thấy có một chiếc ô tô của CS113 chạy trước dẫn đường. Nhà cháu bỗng nhớ chuyện vui cô Tố Nga kể về 2 lần đi ô tô có xe hú còi chạy trước, 1 lần bị cảnh sát đô thành  Sài Gòn bắt đi tù và 1 lần ngồi trên xe VIP.

Sau một lúc, cả LLBV đi kèm và chúng tôi mới biết là sẽ được đưa về Mỹ Đình.
Đến nơi, bác tài hết chui đầu đến lùi đuôi ‘mấy đỏ’ mà không thể vào được cổng đồn công an Mỹ Đình. Nhà cháu bảo cứ mở cửa xe cho mọi người đi xuống, có ai sai trái hay có tội gì đâu mà sợ họ bỏ chạy. Mới đầu, LLBV không chịu, nhưng rồi cũng chả có cách khác nên đành đỗ ngang cổng rồi mở cửa xe cho tất cả xuống.
Vào đến sân, nhà cháu nhận thấy những người được MỜI lên chiếc xe trước cũng được đưa về đây. Hỏi mới biết là LLBV không đủ người và đồn Mỹ Đình cũng không có chỗ để  nên nhiều người vẫn chưa được TIẾP.


Nhóm đi trên chiếc xe buýt 29T5485 cùng nhà cháu sau được đưa cả vào một phòng to, TIẾP chung. (Sau mới được thiếu tá đồn trưởng cho biết đồn công an này thuê chỗ của một trường học).
Hình như từng người cũng chỉ được yêu cầu cho biết họ tên, địa chỉ. Nói hình như, vì nhà cháu được một chú thường phục khoác tay, bảo muốn nói chuyện riêng.
Sau khi được đưa cho xem giấy tờ, nhà cháu và chú an ninh ấy ngồi bệt xuống bậc tam cấp trò chuyện.
Thấy nhà cháu rút thuốc hút, chú an ninh cũng xin một điếu dù không nghiện.
Câu chuyện cũng khá thoải mái. Nhất là khi thượng úy (hay thượng tá nhà cháu không nhớ) tên là Công KHOE là có em trai đang là bác sỹ quân y ở Trường Sa. Nhà cháu nói luôn là các chiến sỹ Quân đội Nhân dân Việt Nam sẽ luôn cảm thấy “ấm lưng” khi mỗi người dân cùng lên tiếng chống TQ gây hấn. Họ sẽ không trở nên đơn độc trơ trọi như những đồng đội đã ngã xuống trên đảo Gạc Ma năm nào.

Thượng Công thuyết phục nhà cháu nên hiểu rằng chuyện biển Đông Nhà nước đang lo, việc đi biểu tình có thể gây ảnh hưởng xấu đến ĐẠI CỤC. Mặt khác các thế lực phản động đang muốn lợi dụng điều đó để chống phá Việt Nam. Thậm chí chúng còn cho tiền người đi biểu tình.

Nhà cháu đã trao đổi thẳng tưng:
1- Chắc anh làm an ninh thì chắc luôn cập nhật tin tức. Chắc anh phải biết chuyện đầu tháng Bảy đã có 300 đại biểu của 19 tờ báo Đảng khu vực miền Trung – Tây Nguyên còn phải họp và thống nhất: Trước tình hình xâm phạm lãnh hải Tổ quốc thời gian gần đây, NGOÀI TIẾNG NÓI CỦA CÁC NGÀNH CHỨC NĂNG, BÁO CHÍ NÓI CHUNG, BÁO ĐẢNG NÓI RIÊNG CẦN GÓP TIẾNG NÓI MẠNH MẼ HƠN NỮA KHẲNG ĐỊNH CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM….
Nhà nước làm việc của Nhà nước. Tôi là dân, nói như GS Phạm Duy Hiển là: nhiều người khác họ lên tiếng được, từ ông Chủ tịch nước, ông Thủ tướng đều lên tiếng, cho tới các Hiệp hội hội Luật sư, Hiệp hội Dầu khí… tất cả họ đều lên tiếng. Còn tôi chỉ là một cá nhân, một công dân, tôi KHÔNG BIẾT LÊN TIẾNG Ở ĐÂU ĐƯỢC THÌ TÔI ĐI BIỂU TÌNH!

2- Trao đổi với văn nghệ sĩ Thủ đô tại Đại hội đại biểu Hội  Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Nội cũng mới đầu tháng này, Ủy viên Bộ Chính trị  ĐCSVN Phạm Quang Nghị đã cho rằng: NẾU CHỈ CÓ NHƯ THẾ MÀ THÀNH CÔNG THÌ CÓ LẼ KHÔNG PHẢI XUỐNG ĐƯỜNG CHỈ CÓ NGẦN ẤY NGƯỜI MÀ CÓ THỂ PHẢI ĐI NHIỀU HƠN. Và nếu chỉ có biện pháp ấy thành công thì phía họ còn xuống đường nhiều hơn chúng ta. Và đó cũng chỉ là một trong những việc có thể làm hoặc làm thế nào  để phối kết hợp với các biện pháp khác, nhưng đấy không phải là biện pháp duy nhất để bảo vệ chủ quyền biển đảo. Đây là vấn đề rất hệ trọng, rất lớn và chúng ta phải có sự nhất trí rất cao thì chúng ta mới thắng lợi được. Nhưng nếu chúng ta không nhất trí cao, không muôn người như một mà mỗi người làm một ý thì chính chúng ta làm suy giảm sức mạnh mà chúng ta đang có chứ không phải làm tăng sức mạnh ấy lên.

(Xin mở ngoặc ngay rằng: Lúc ấy nhà cháu chỉ nói đại ý, không đầy đủ được DƯ LÀY. Tuy nhiên, thượng tá Công đã không hề vặn vẹo lại , vì chắc cũng có biết những thông tin này. Giờ ngồi làm entry này thì nhà cháu phải ĐẦY ĐỦ và có dẫn nguồn hẳn hoi.)

3- Hôm ông P.Q. Nghị chưa nói thế, nhưng qua thực tế tôi cũng đủ nhận biết được các “tín hiệu đèn xanh”, rằng  Nhà nước không chỉ không cấm “TỤ TẬP”, MÀ CÒN BẢO VỆ “các  BỘ HÀNH” như tôi đã có tường thuật ghi nhận về các cuộc XUỐNG ĐƯỜNG các Chủ nhật trước.
(Câu này thì CHUẨN luôn, vì đây là nhời của nhà cháu, không trích dẫn)

Vậy thì ý kiến “biểu tình có thể gây ảnh hưởng xấu đến ĐẠI CỤC” có lẽ là suy nghĩ của cá nhân anh.

Còn chuyện để các thế lực phản động lợi dụng thì KHÔNG THỂ CÓ.
Bằng này tuổi, được ông-bà-bố-mẹ  nuôi ăn học, tôi không để ai lợi dụng. Mà anh đừng xúc phạm cá nhân tôi và những người đi biểu tình khi nói đến chuyện NHẬN TIỀN!

Đúng lúc ấy, một bác trai mặc áo phông quốc kỳ đi ngang qua (sau nhà cháu mới được biết bác ấy có quý danh đầy đủ là Đào Tiến Thi), góp chuyện: – Chắc anh lại nói chuyện Việt  Tân chứ gì. Trong số những người tuần hành và những người bị đưa về đây, anh chỉ cho tôi một thằng. Tôi sẽ còn đánh nó trước anh.
Thượng tá Công thừa nhận là không có.
Bác Thi thắc mắc là chả được ai tiếp, nhà cháu kéo ngồi TRAO ĐỔI luôn cùng thượng úy Công.
Bác ây bảo:- Nếu anh bảo “biểu tình có thể gây ảnh hưởng xấu đến ĐẠI CỤC” thì sao Đảng và Nhà nước không thông báo chính thức để Nhân dân biết. Nếu có như vậy, tôi là 1 đảng viên sẽ ở nhà luôn. Thượng tá Công cười dàn hòa, lại xin nhà cháu điếu thuốc nữa. Trong lúc trao đổi, anh liên tục có điện thoại và đều rất lịch sự xin phép chúng tôi ngưng để nghe.

Nhà cháu TRAO ĐỔI tiếp về chuyện các thanh niên đeo băng đỏ hành xử quá thô bạo. Rằng: Sao cùng máu đỏ da vàng như nhau mà họ có thể làm như thế? Rằng: Những hành động ấy sẽ làm xấu đi hình ảnh Việt  Nam trong mắt người nước ngoài chứng kiến và xem ảnh. Rằng: Thượng tá Công cần phản hồi với cấp trên của anh để chấn chỉnh ngay việc đó.
Bác Thi thêm:- Tôi không tin có lệnh từ trên, nhưng tại sao họ dám làm thế cả với những người đáng tuổi cha mẹ họ?
Thượng tá  Công thừa nhận việc đó là KHÔNG CHẤP NHẬN ĐƯỢC. Nhưng anh bảo:Trong các bác chắc cũng thế. “Bàn tay có ngón ngắn ngón dài”, chắc có người không nhận thức được đầy đủ mệnh lệnh. Anh cũng hứa sẽ báo cáo cấp trên về việc này.
Được một lúc, anh bảo chúng tôi có thể về. Cả bác Thi và nhà cháu đều bảo để chờ mọi người XONG rồi cùng về.
Sau đó thượng tá Công lại ra giữa sân nghe điện thoại và đi lúc nào nhà cháu cũng không hay. Giờ mới tiếc là quên không chụp ảnh để ghi lại hình ảnh đẹp về một sỹ quan an ninh thân thiện và có học.

Mà chả biết trong “lớp học” có chuyện gì mà tý lại nghe vỗ tay, cười rầm rầm. Nhà cháu và bác Thi lượn vào, thấy có một anh mặc sắc phục, “đeo lon” thiếu tá, biển tên đầy đủ: Chu Anh Tuấn 121-717 (số đẹp ghê, không biết có THỬA không nhể?). Nhà cháu bỗng nhớ là có một số người mặc cảnh phục lúc đầu có đeo biển nhưng sau đều tháo cất đi. Không biết chuyện gì nhưng thiếu tá Tuấn đang cười nói rôm rả với bà con.
Nhà cháu kêu khát nước, có bác rót từ một bình nước to đưa cho 1 cốc. Xời, phải nói là đã đời! Trưa nắng nóng khiếp!
Thiếu tá Tuấn cười bảo:- Lúc nãy đem ra mời, bà con bắt tôi phải uống trước đấy.
Nhà cháu đùa lại: – Thì nhỡ có người cho thuốc ngủ vào thì bọn tôi ngủ ở đây mất.
Có bác MÁCH là thiếu tá Tuấn đã hứa tý nữa sẽ có ô tô chở tất cả về lấy xe máy. Nhà cháu vỗ tay hoan hô.

Thiếu tá Tuấn phân trần là đồn nghèo lắm, chưa có trụ sở, phải đi thuê nhà của trường học.
(Ra thế! Lúc vào, nhà cháu cứ séc méc là sao đồn công an mà lại có biển ghi “Tiên học lễ, hậu học văn”.). Anh còn bảo nếu không chê, mời bà con ở lại ăn cơm trưa với đồn để biết công an ăn uống thế nào. Mọi người lại vỗ tay rầm rầm.

Nhưng có mấy bác vưỡn bức xúc vì đưa về đây. Cái bác gái đi khám bệnh nói bô bô (bác ấy còn chửi tục lắm, không dám chép ra đây): Tao đi khám bệnh mà giờ ở đây… Lại còn bị đánh, lần sau tao sẽ đi biểu tình thật luôn! Mọi người lại vỗ tay rầm rầm.
Một bác “gạ”: Hay Chủ nhật sau anh Tuấn  đi tuần hành với chúng tôi…cho vui. Lại vỗ tay rầm rầm.
Nhớ ra lúc bác ấy bị đẩn thô bạo lên cửa ô tô buýt bị  gãy gập cả cái ô, nhà cháu giơ ra cho thiếu tá Tuấn xem, anh lắc đầu, cười buồn.

Ôi, chả bù cho lúc bị dồn lên xe buýt. Thật tình nhà cháu chưa bao giờ thấy thoải con gà mái với ‘các chú công an’ dư lày.

Đảo ra sân đồn/trường thấy các bác khác cũng đang hàn huyên vui như Tết. Nhiều bác hỏi xin nhau số điện thoại. Thấy nhà cháu ra, các bác bắt chụp giúp mấy pô ảnh lưu niệm.



Bác gái đứng giữa bác GS-TS Nguyễn Yên Đông và chú em Nguyễn văn Phương tên là Nguyễn Nguyên Bình (con cụ Nguyễn Trọng Vĩnh, đồng môn với ông Nguyễn Phú  Trọng ở khoa Ngữ văn trường Đại học Tổng hợp).

Một bác KHOE được ‘hối lộ’ 40.000đ để kiếm xe về nhưng không về. Bác GS Nguyễn Yên Đông còn được bảo để đưa về bằng xe con cũng không về.Để “nào ta cùng lên xe buýt” với mọi người cho vui.

Loanh quanh mải chuyện trò, hơn 1 tiếng đồng hồ sau vưỡn chả thấy xe đâu. Nhà cháu chạy quanh tìm không thấy thiếu tá Tuấn. Ra cổng hỏi, trực ban chỉ vào trong. Định đi lên gác thì bị một chú khác cản, bảo sẽ đi gọi. Lại đành chờ. Nhưng càng chờ càng mất hút. Mấy bác già rủ nhau lên gác, bị chặn lại, chú công an đứng đầu hiên chỉ cho 1 người lên tìm. Nhưng cả phòng có treo biển “Đồn trưởng” cũng không thấy. Hỏi mấy chú vừa mới làm việc với mọi người thì đều giả điếc.

Chán vì bị ‘ăn thịt hươu’ có bác bắt đầu bực:- Bắt về bằng được rồi đem bố bỏ chợ thế này!
11g30, ai nấy đều mệt và đói. Bác Yên Đông lại có việc “nghĩa tử là nghĩa tận” với 1 đồng nghiệp ở viện nên sốt ruột nhưng cũng chỉ đưa ý kiến là mọi người nên cùng đi ra bến xe buýt. Tuy nhiên, số đông lại ủng hộ việc ở lại đòi bằng được xe chở về. Bác Hằng ‘béo’ móc tiền bảo mấy chú trẻ chạy đi mua bánh mỳ, nước. Mấy bác khác và nhà cháu cũng góp, rồi nhà cháu kéo mấy thanh niên nữa đi vơ vét mấy quán mua được một đống bánh mỳ ruốc, nước, sữa mang về.

Đang ăn thì thiếu tá Tuấn đột ngột xuất hiện, nhăn nhó thanh minh đồn bị ‘bỏ bom’, không có kinh phí và không đủ thẩm quyền giải quyết. Đã báo cáo cấp trên nhưng cũng không có phương án giải quyết. Kể cũng buồn cười thật.

Thông cảm với phân trần của thiếu tá Tuấn, mọi người quyết định ăn uống xong sẽ tuần hành tiếp tục ra bến xe buýt. Vừa lúc, lốc-gơ Nguyễn Xuân Diện chả biết kiếm đau được cái ô tô, mò đến. Các băng-rôn khẩu hiệu được giăng ra, mọi người đứng chụp ảnh kỷ niệm trong sân đồn công an Mỹ Đình rồi tiến ra cổng.


Chính Ngọ, đoàn tuần hành bắt đầu ‘tua’ mới. Có bác bảo đếm được 46 người tất cả.
Vừa được tiếp năng lượng, ai nấy hô thật hoành tráng. Lại Đả đảo TQ gây hấn, Đả đảo TQ cướp của ngư dân Việt  Nam, Bảo vệ biển đảo Việt  Nam, Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh … Rồi hát. Hết “Dậy mà đi” lại “Nối vòng tay lớn”…



 Hoành tráng là bác Hằng ‘béo’ kiếm đâu được đến 2 cái loa pin nên càng khí thế.


Hai bạn trẻ này quê tận Yên Bái gì đó, đang học ở Hà  Nội. Lúc trong đồn, bác Hằng ‘béo’ bảo như cán bộ tuyên huấn:  Đất nước này trông vào các cháu! Thằng nào đuổi học chúng mày cứ gọi tao! Kinh thía.


Vợ chồng GS-TS Nguyễn  Đông Yên đồng hành đến cùng dù bác ấy nhịn đói vì đang ăn chay không ăn được bánh mỳ kẹp ruốc. Khổ, nhưng nhà cháu và mấy bạn tìm khắp mấy quán chả có gì khác.


Phố trưa nắng gắt và vắng ngắt, nhưng từ tít các cửa kính mấy nhà cao tầng thấp thoáng bóng người nhìn ra.

Rồi mấy bác đi đường dừng lại biểu đồng tình. Vui đáo để!

Đến bến xe buýt ngang Bảo tàng  Hà Nội vừa xây và  Trung tâm Hội nghị Quốc gia Mỹ Đình còn có bác mang hoa , cùng cả 1 thùng  LaVie ra tặng. Cái nhà bác Hằng ‘béo’ trông thế mà Nhát giai, ép mãi mới chịu nhận rồi lại tặng lại người khác. Phương án cuối cùng đưa ra là mỗi người nhận 1 bông hồng. Hề hề! Zui zẻ cả!

Trong lúc chờ xe buýt cả đoàn vẫn hô-hát say sưa (đoạn này cháu quay video nên không post lên đây được). Chuyên môn đi điền dã khảo cổ như nhà cháu mà có lúc cũng hơi choáng vì nắng nóng, vậy mà cháu Chíp (con lốc-gờLê Dũng) vưỡn ‘nhảy chân sáo’.
Từ đâu xuất hiện một xe CS113 biển số 31A-6507 đến đỗ cách đó mươi mét. Một chú ngồi trong xe máy lạnh lại hí húi quay phim, chụp ảnh.
Khổ, bao nhiêu gương mặt này thì các chú NHẴN hết rồi, quay chụp làm gì nữa !



Nhưng lạ là mấy chuyến xe tuyến số 50 (có đỗ gần vườn hoa Lê Nin) đều bỏ bến chạy thẳng  dù mọi người có vẫy và trên xe rất vắng.
Thôi thì kết thúc một buổi XUỐNG ĐƯỜNG có quá nhiều bất ngờ cũng chả muốn nghĩ xấu về bất cứ ai, mọi người vẫy ta-xi và từng nhóm 3-4 người ra về, sau khi hẹn gặp lại..

*Bài do Bác Gốc Sậy gửi trực tiếp cho NXD-BLog và Da Vàng Blog.

Xin chân thành cảm ơn tác giả!