Thứ Năm, 8 tháng 9, 2011

BBC: VIỆT - TRUNG THỪA NHẬN KHÁC BIỆT

Việt - Trung thừa nhận khác biệt
Cập nhật: 15:11 GMT - thứ tư, 7 tháng 9, 2011
.
Ông Đới Bỉnh Quốc sang dự cuộc họp của Ủy ban hợp tác song phương Việt Nam-Trung Quốc 

Tiếp Ủy viên Quốc vụ Trung Quốc, ông Đới Bỉnh Quốc tới làm việc tại Việt Nam, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nói rằng trong vấn đề Biển Đông "việc hai bên còn khác biệt là thực tế khách quan".

Theo truyền thông nhà nước Việt Nam, tại cuộc gặp diễn ra chiều thứ Tư 7/9/2011 ở Hà Nội, ông Dũng cũng nhấn mạnh đối thoại Việt - Trung "dựa trên tinh thần tôn trọng và tin cậy lẫn nhau, trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982".
Ngoài ra, Thông tấn xã Việt Nam trích lời ông Nguyễn Tấn Dũng nói đến nhu cầu đối thoại dựa trên Tuyên bố về cách ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC) nhằm "tìm kiếm giải pháp cơ bản lâu dài mà hai bên có thể chấp nhận được".

Gắn liền vận mệnh?

Thông tấn xã Việt Nam thuật lại rằng ông Đới Bỉnh Quốc cũng đáp lại tương tự, nếu không phải là nguyên văn.

Theo đó, ông Đới đã "đề nghị, trên tinh thần vừa là đồng chí, vừa là anh em, hai bên khẩn trương cùng nhau đàm phán, thảo luận những vấn đề mà hai bên còn khác biệt trên Biển Đông để tìm ra những giải pháp mang tính cơ bản, lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được".

Nguồn tin của phía Việt Nam cũng nói Thủ tướng Việt Nam cho rằng hai bên "cần đẩy nhanh đàm phán để sớm ký Thỏa thuận các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển, tạo cơ sở để hai bên giải quyết các vấn đề cụ thể trên biển".

Cùng ngày, ông Đới Bỉnh Quốc cũng được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp tại Hà Nội bằng những phát biểu rất thắm thiết.
"Hai Đảng và Chính phủ có chung lý tưởng, có lợi ích chung, vận mệnh gắn liền với nhau, không có lý do gì không cố gắng thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển tốt đẹp"
Ông Đới Bỉnh Quốc
Báo chí chính thống Việt Nam trích lời ông Đới Bỉnh Quốc nói hai Đảng và Chính phủ "có chung lý tưởng, có lợi ích chung, vận mệnh gắn liền với nhau, không có lý do gì không cố gắng thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển tốt đẹp".

Trong phát biểu của ông Trọng không thấy có từ "khác biệt" mà chỉ có "hai bên còn có những vấn đề tồn tại", hàm ý sẽ sớm được giải quyết.

Tuy cũng nói về tình hình Biển Đông, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng coi đây chỉ là vấn đề cần tìm ra giải pháp thỏa đáng để hướng tới mục tiêu lâu dài hơn là "tạo điều kiện thuận lợi cho mối quan hệ láng giềng hữu nghị và hợp tác toàn diện Việt Nam - Trung Quốc tiếp tục phát triển".

Hôm qua, Tân Hoa Xã của Trung Quốc đưa tin trích lời ông Đới Bỉnh Quốc rằng "Quan hệ Trung -Việt cần phát triển trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và cùng phát triển".


Một đảo ở vùng Trường Sa mà Trung Quốc gọi là Nam Sa

Đây là phát biểu của ông tại Phiên họp lần thứ 5 Ủy ban Chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam-Trung Quốc về biên giới trong bối cảnh căng thẳng tại Biển Đông mà Trung Quốc gọi là Nam Hải tiếp tục gia tăng những tháng qua.

Nhân chuyến thăm của ông Đới, các báo chính thống tại Việt Nam liên tục chạy các hàng tít mang tính hạ nhiệt và tìm đồng thuận, dạng như "Gạt bỏ trở ngại để thúc đẩy quan hệ Trung-Việt", trích nguyên văn lời phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc, ông Mã Triều Húc.

Tuy nhiên, các báo Việt Nam không nói "trở ngại" đó là gì, do ai gây ra.

Hai bên cũng không hề nhắc đến các vụ chính phía Việt Nam từng nêu ra là "tàu Trung Quốc gây hấn" tại vùng biển Việt Nam tuyên bố chủ quyền hay cáo buộc ngược lại khi Trung Quốc nói tàu cá Việt Nam "xâm phạm lãnh hải" của họ.

Phía Trung Quốc cũng chưa bao giờ chính thức bỏ hay sửa đổi tuyên bố chủ quyền gần trọn vùng biển Đông Nam Á, điều khiến các nước trong vùng lo ngại.

Tân Hoa Xã nói trước phiên họp lần thứ năm của Ủy ban Chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam-Trung Quốc ông Đới Bỉnh Quốc nêu ý kiến chỉ đạo rằng quan hệ Trung - Việt cần được nhìn nhận "từ viễn cảnh lâu dài" và xử lý từ "tầm cao chiến lược trong các hoàn cảnh mới".

Các bản tin của hai bên không nêu rõ lời ông Đới định nghĩa "hoàn cảnh mới" này là gì.

Sinh năm 1941, người dân tộc Thổ (Tujia), tỉnh Quý Châu, ông Đới (Đái) Bỉnh Quốc từng làm việc tại Vụ Liên Xô và Châu Âu của Bộ Ngoại giao Trung Quốc và là cựu đại sứ Trung Quốc tại Hungary trước khi lên làm thứ trưởng ngoại giao.

Theo trang web của chính phủ Trung Quốc, hiện ông Đới là nhân vật cao cấp nhất của Trung ương Đảng Cộng sản về đối ngoại và giám đốc văn phòng an ninh quốc gia của Trung ương Đảng. 

Ông cũng đóng vai trò chính trong cuộc đàm phán liên qua đến Nam Bắc Triều Tiên.


TRẦN VŨ LONG: ĐỂ NHỚ MẸ VÀ MỘT THỜI KHỐN KHÓ


Chuyện kể từ chiếc bánh cắt
(Để nhớ mẹ và một thời khốn khó)
Trần vũ Long

Có lẽ tôi nên bắt đầu bài viết này từ câu chuyện về chiếc bánh cắt của một họa sĩ nổi tiếng, được nhiều người yêu quý. Hôm đó là một ngày làm báo của mấy anh em chúng tôi, ông mở cửa bước vào, đặt bịch một gói lên bàn: “Mời các ông lại ăn bánh cắt của nhà hàng Bô Đê Ga, để nhớ lại một thời bao cấp. Ăn đi, ít nữa không có mà ăn đâu. Bô Đê Ga sắp đem bán cho tây rồi”. Vẫn là những cử chỉ, cách nói hóm hỉnh, họa sĩ Thành Chương mở gói bánh được bọc bằng giấy giang màu trắng đục, cái thứ giấy mà nhà hàng Bô Đê Ga vẫn dùng để gói các loại bánh suốt mấy chục năm nay, vẫn kiểu gói như xưa. Trước mặt chúng tôi là một chiếc bánh nướng dài, được cắt chéo thành từng miếng. Vậy là với chiếc bánh cắt cộng với ấm trà Thái Nguyên ướp hương sen, hàng loạt câu chuyện về thời bao cấp giống như những thước phim đang được tái hiện. Đó là những thước phim không ai muốn xem lại, nhưng cũng chẳng ai quên được. Là thế hệ sinh sau đẻ muộn, với tôi ký ức về thời bao cấp rất ít. Những năm tháng cuối cùng của thời kỳ bao cấp, lúc đó tôi mới chỉ là một đứa trẻ học lớp 5 lớp 6 gì đó. Hiểu biết của tôi về thời khốn khó đó chủ yếu qua phim ảnh, sách báo, qua những câu chuyện kể của bố mẹ, của những người thuộc thế hệ trước sống quanh tôi. Họ nói về thời bao cấp với những cung bậc tình cảm thật khó diễn tả: có một chút gần gụi thân quen, bởi những năm tháng đó gắn liền với phần lớn quãng đời của họ; nhưng ẩn sâu bên trong là nỗi khiếp sợ. Sao mà khổ sở thế! Sao mà cùng cực thế! Sao mà cay nghiệt thế! Sao mà…khốn nạn thế! Bao cấp là thời mà phẩm giá của con người bị miếng ăn hành hạ.

Bao cấp! Bao cấp! Ngay lúc này đây, khi đang ngồi gõ tay lên bàn phím máy vi tính, hai từ đó cứ vang lên trong đầu tôi. Sau hàng loạt câu chuyện được xem, được đọc, được nghe kể, cộng với một chút ký ức của tôi, và đặc biệt sau khi được xem triển lãm về thời bao cấp, tại Bảo tàng Dân tộc học, dường như nó đang làm tôi khiếp sợ. Các cụ đã dậy, trăm nghe không bằng một thấy, vâng, cái triển lãm về thời bao cấp đã gây ấn tượng mạnh đối với tôi. Tôi đã được xem, được sờ vào những hiện vật hết sức bình dị nhưng lại khiến người ta phải rùng mình mỗi khi nhớ đến nó. Ở đó có hình ảnh của bố mẹ tôi, của những người thân cứ hiện dần lên qua các đồ vật, và đôi chút hình ảnh của một cậu bé của hơn 20 năm về trước. Mỗi hình ảnh được trưng bày ở đây là một câu chuyện, là một số phận đầy gian truân, thậm chí bi hài. Tôi thầm thán phục những con người đã phải lao động, học tập, bươn trải kiếm từng miếng ăn thời đó. Tôi được gặp đôi chút kỉ niệm tuổi thơ của mình thông qua cảnh tái hiện một cửa hàng lương thực.

 

Hồi đó, tôi thực sự vui sướng mỗi khi được theo mẹ xếp hàng mua gạo. Trong lúc mẹ đang vất vả chen chúc giữa một đám người khó tính, cáu bẳn, thì tôi lại đang vui vẻ nô đùa cùng lũ trẻ trên những bao tải gạo bằng sợi gai được xếp cao ngất. Những tải gạo đã trở thành chỗ nấp chơi trò đánh trận giả cho bọn trẻ. Thỉnh thoảng các cô mậu dịch viên lại ra quát mắng, tôi chạy re tìm về nép bên mẹ trong hàng người dài dằng dặc. Lúc đó mẹ lại xoa đầu tôi và bảo ra ngoài chơi cho thoáng. Ngước nhìn mẹ, những giọt mồ hôi ướt đầm trên trán, khuôn mặt vốn xanh xao hao gầy đang đỏ bừng vì nóng bức và mệt mỏi. Lúc đó tôi biết mẹ đang rất mệt, vì có khi từ sáng sớm đến giờ mẹ cũng chưa kịp ăn gì. Nhưng lúc đó một đứa trẻ đang tuổi chơi như tôi đã nào biết nghĩ thương mẹ. Hồi đó, mỗi lần mua gạo là mẹ tôi lại xin nghỉ một buổi làm để xếp hàng, cũng có khi phải dậy từ tờ mờ sáng. Đôi khi, tôi cũng xếp hàng thay mẹ trong chốc lát. Những lúc đó tôi cảm thấy vô cùng sợ hãi. Thằng bé con đứng lọt thỏm giữa đám người mồ hôi, mồ kê nhễ nhại. Họ không ngừng than vãn, cãi cọ. Các cô mậu dịch viên luôn mồm quát tháo. Tôi sợ những bộ mặt cáu kỉnh, hằm hè ở trên đầu mình, sợ bị đè bẹp trong hàng người chen chúc đó, chỉ mong sao mẹ mau trở lại. Tôi vẫn còn nhớ câu khẩu hiệu được treo trên mỗi quầy bán gạo: “Vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi” nhưng than ôi, quan hệ của các cô mậu dịch viên với khách hàng lúc đó còn hơn cả thủ trưởng với nhân viên. Còn các cán bộ chuyên viên cao cấp hồi đó đâu có phải xếp hàng khổ cực như vậy vì đã có cửa hàng ở phố Tông Đản để phục vụ. Vâng, chỉ có những người dân lao động vất vả thì thời nào cũng chịu thiệt thòi. Dẫu sao thì thời bao cấp, cái nổi khổ là nỗi khổ chung cho cả dân tộc. Cả một dân tộc hồn nhiên đặt cược đời mình, phẩm giá của của mình, lý tưởng của mình cho một niềm tin và đến một ngày đã phần nào nhận ra rằng niềm tin đó không thể là phao cứu sinh cho cuộc mình cho dân tộc mình. Nói như vậy không có nghĩa là rất nhiều người bây giờ không còn niềm tin để sống. Dẫu sao thì khi chúng ta tồn tại trên cõi đời này vẫn nên thắp cho mình một niềm tin. Có thể niềm tin trong mỗi người có một sắc thái khác nhau nhưng vẫn cùng mẫu số chung đó là mong muốn một tương lai tươi sáng hơn. Chúng ta tin cuộc đời này rồi sẽ không còn chỗ đứng và leo cao cho sự xảo trá, cho những thói vênh vang đạo đức giả. Chúng ta tin ngày mai bước chân ra phố sẽ nhận được những ánh mắt và nụ cười thân thiện chứ không phải sự lạnh lùng và vô cảm đến đớn hèn mà con người đang ngầm dạy bảo nhau. Chúng ta tin chuyện miếng cơm manh áo sẽ không là nỗi ám ảnh thường trực trong mỗi người dân cần lao. Chúng ta tin lòng tốt và những giá trị chân thực sẽ tìm lại được mảnh đất tươi tốt của mình để sinh trưởng và đơm hoa kết trái. Chúng ta tin… và chúng ta cần phải đặt niềm tin nhiều lắm. Vì niềm tin đó giúp ta kiêu hãnh đứng thẳng. Niềm tin giúp ta đấu tranh, giúp ta cống hiến và giúp ta tồn tại.

Giờ đây, cái của hàng lương thực năm xưa đã biến thành dãy biệt thự sang trọng. Mỗi lần ngang qua đó, tôi lại nhớ đến một phần tuổi thơ của mình, nhớ đến những bao tải gạo đã bốc mùi hôi xì mà bọn trẻ con vẫn trèo lên, và…tôi lại nhớ đến mẹ.

Thời đó bấy giờ, gia đình nào cũng phải kiếm thêm việc làm để có thêm thu nhập. Gia đình tôi cũng nhận việc chuốt sợi tơ tằm cho nhà máy. Bất kể lúc nào bố mẹ rảnh rỗi là trong nhà tôi lại vang lên tiếng kêu lọc cọc của chiếc guồng quay sợi bằng gỗ. Cứ mỗi một bó sợi vàng óng được chuốt xong là bố mẹ tôi lại có thêm được mấy đồng bạc. Để có được một bó sợi như thế phải mất cả tiếng đồng hồ, một tay thì quay liên tục, còn một tay thì bóc kén còn dính trên sợi, đôi khi tứa máu vì bị cứa vào tay.

Còn nhớ lúc nhỏ, tôi có thằng bạn hàng xóm, nhà nó có vô tuyến đen trắng đặt trên tủ li, có đài quay đĩa phát ra những bài hát Liên Xô, có tủ lạnh caratov, đôi khi còn có cả những miếng bơ vàng óng ở bên trong. Tôi cảm thấy hãnh diện vì có một thằng bạn như thế. Sang nhà nó, tôi được nghe đài, xem vô tuyến, thậm chí đuợc ăn cả bánh mì bơ. Sở dĩ nhà nó có đầy đủ tiện nghi, vì bố nó là cán bộ của thành phố, đã từng đi Liên Xô, mẹ nó là cán bộ ở cửa hàng miễn thuế. Đối với tôi, ngôi nhà đó giống như một thiên đường. Mỗi lần sang chơi, tôi còn được chạy nhảy trên cái nền gạch đá hoa có hai màu trắng và đỏ, rồi thích thú thú áp má xuống những viên gạch mát rượi. Không ít lần, tôi đã ngủ quên trên cái nền gạch mịn màng và mát rượi đó.

Thời bao cấp người ta có câu nói cửa miệng “ai đi Liên Xô, chưa mang được cái ti vi tủ lạnh về coi như chưa đi”. Gia đình tôi có người quen làm việc ở cơ quan trung ương, cũng từng được đi Liên Xô, nhưng ông không mua sắm gì nhiều cho gia đình mà chỉ dành dụm tiền để chi tiêu hàng ngày, mỗi tháng một vài lần làm thịt gà cải thiện. Hàng xóm dòm ngó. Chính quyền địa phương biết chuyện. Rồi đến tai cơ quan. Vậy là ông bị ghi vào lý lịch với tội danh hay ăn thịt gà. Vậy là chết rồi, cả nước đang khốn khó, ai bảo nhà ông hay ăn thịt gà làm gì. Suốt mấy chục năm tích cực cống hiến, ông vẫn không lên nổi chức trưởng phòng. Cho đến tận bây giờ trong suy nghĩ của các thủ trưởng, hình như ông đã từng có vết đen gì đó trong lý lịch.

Chuyện thời bao cấp, đối với nhiều bạn trẻ giống như những câu chuyện giả tưởng. bản thân tôi cùng từng được nghe những câu chuyện như thế và cảm thấy thật khó tin. Có lần họa sĩ Thành Chương đã kể cho tôi nghe câu chuyện:

Trong quán phở, một người đàn ông ăn mặc lịch sự, quần âu, áo sơ mi trắng, sơ vin ngăn nắp. Sau khi gọi một bát phở, ông ta lấy trong túi áo ra một lọ pê-li-xi-lin, rồi dùng que tăm hẩy từng hạt màu trắng ở bên trong cái lọ cho rơi vào bát phở. Trời ơi, những hạt màu trắng đó là mì chính. Một thứ gia vị xa hoa trong thời buổi đói kém. Hàng chục con mắt đổ dồn về phía người đàn ông. Trong đó có ánh mắt thèm thuồng, có cả ánh mắt dè bỉu, khinh bỉ. Thời buổi này mà ông ta có hẳn một lọ mì chính to bằng ngón tay cái thế kia chỉ có thể là kẻ bất chính.

Chỉ sau khi nhìn lọ pê-li-xi-lin đựng mì chính bày trong tủ kính của bảo tàng, tôi mới tin đó là câu chuyện có thật.

Nếu như thời bao cấp, các cô gái vẫn thường giương cao câu khẩu hiệu để tìm người yêu: “Một yêu anh có may ô/ Hai yêu anh có cá khô ăn dần/ Ba yêu rửa mặt bằng khăn/Bốn yêu anh có chiếc quần đùi hoa”. Đây chỉ là bài thơ vui nhưng cũng đã phản ánh phần nào nhu cầu cuộc sống lúc bấy giờ. Nếu như các cô gái thời đó biết được các cô gái chân dài bây giờ đặt tiêu chuẩn kiếm chồng như thế nào thì chắc hẳn sẽ không thể đứng vững được.

Thời bao cấp, những ước muốn của con người ta thật đơn giản, nó phản ánh rõ nét cuộc sống nghèo đói, thiếu thốn. Khi đó người ta chỉ ao ước được ăn một bát cơm ngon, được đi chiếc xe đạp Phượng hoàng, được sở hữu một chiếc quạt điện nhỏ, được tắm bằng xà phòng thơm. Còn bây giờ các bạn trẻ có thể mơ ước một chiếc ôtô hạng sang, được ở trong những ngôi biệt thự sang trọng, được đi du lich khắp nơi trên thế giới. Một trong những điểm khiến cho cái triển lãm về thời bao cấp mà tôi đã từng được xem, là tiếng nói của những người dân bình thường đã từng trải qua giai đoạn cùng cực đó, nhằm nói với thế hệ internet rằng những gì xảy ra trong qua khứ giống như nuôi một con lợn trong phòng tắm. 

Bao cấp đó là thời bi tráng, cũng là bài học đắt giá về quy luật phát triển của xã hội, cũng như quản lý nhà nước. Bao cấp, đó là hai từ mà chúng ta cần phải quên đi, để bước tiép trên con đường dài nhưng cũng là bài học truyền kiếp cho các vị đang nắm giữ vị trí quan trọng của đất nước. Hơn hai mươi năm đã qua đất nước có nhiều thay đổi, nhưng chúng ta vẫn chưa thoát khỏi nhóm nước nghèo, chậm phát triển.  Tất cả những gì đi ngược lại với quy luật rồi sẽ bị đào thải.

T.V.L

ĐỖ TRUNG QUÂN: ĐỈNH ĐIỂM và TẬN ĐÁY


Đỉnh điểm & Tận đáy
Đỗ Trung Quân 

Bức công văn trả lời yêu cầu đính chính và xin lỗi của các nhân sĩ, trí thức của ông Tổng giám đốc Đài truyền hình Hà Nội (xem ở dưới), với nội dung của nó, đã lập ngay 2 kỷ lục: Đỉnh điểmTận đáy. 

Đỉnh điểm: 

Là sự ngạo mạn sau khi vu cáo, bôi nhọ, vẫn khinh thường trí thức để được đứng trên pháp luật. Không xin lỗi – không đính chính. Sặc mùi trơ tráo dối trá, tiếp tục khẳng định:

"... những ý kiến của các công dân phát biểu là ý kiến cá nhân, đồng thời cũng là phản ánh tâm tư nguyện vọng của đông đảo tầng lớp nhân dân Thủ đô mong muốn chính quyền sớm có biện pháp chấm dứt biểu tình tự phát, duy trì nghiêm kỷ cương, pháp luật...”

Ngụy biện và cũng đồng thời tự trưng ra sự dốt nát : Ý kiến cá nhân không thể, không bao giờ đồng thời cũng là “tâm tư nguyện vọng của đông đảo tầng lớp nhân dân.” Thói ăn đàng sóng nói đàng gió đã nhiễm tận xương của những con người dối trá đã thành thần.

Tận đáy:
 
Là tận đáy của sự suy đồi đạo đức, văn hoá, nhân cách... Những ứng xử cơ bản bình thường của bất cứ những ai được đi học, huống chi trong lãnh vực truyền thông đại chúng như Truyền hình. Trong quá khứ, không ít vụ việc của những “nhà báo” truyền hình là chức sắc hay con cái chức sắc khi ra nước ngoài đã phạm vào những điều thuộc về liêm sỉ cá nhân [chưa nói là thể diện Quốc gia] như ăn cắp, quan liêu, nhũng nhiễu người Việt ở nước ngoài, nó đã từng được báo chí nước ngoài đăng tải. Bộ mặt Quốc gia và Quốc tịch Việt Nam bị bôi nhọ, nhưng khi trở về tất cả đều được ém nhẹm cho rơi vào im lặng. Những con người ấy vẫn tiếp tục lên sóng như chẳng có gì xảy ra. Dù thế, vẫn không ai hàm hồ nói rằng họ là “đại diện” cho tất cả sự tệ hại của người Việt. Nó, cái thói “hương nguyện, đức chi tặc giả”, là điều được chỉ rõ trong những lời này:
 
Không khác gì Khổng Tử vốn ôn tồn, lễ nhượng, đã nổi cơn thịnh nộ, mắng nhiếc lũ nho hương nguyện là bọn giặc của đạo đức. Bởi chúng chuyên nghề “nhân danh”. Bởi chúng là những kẻ phá hoại đạo đức và lý tưởng một cách tàn tệ hơn ai hết. Trước cổng thiên đàng và cửa thánh hiền, không có chỗ cho bọn giả hình, không có chỗ cho bọn “đức tặc”(F.Nietzsche - bản dịch của Hà Vũ Trọng).

Giả hình và “đức tặc” qua thái độ và nội dung công văn trả lời của ông Tổng giám đốc Trần Gia Thái của đài Truyền hình Hà Nội là minh chứng rõ nhất.nó không thể khác chính là sự “giả hình” thói  “đức tặc”.

Rõ rồi nhé! Rõ mồn một rồi nhé!





THƯ NGỎ CỦA ÔNG LÊ HIẾU ĐẰNG GỬI CÁC NHÀ LÃNH ĐẠO VIỆT NAM


Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
Độc Lập – Tự do – Hạnh phúc
_____________

THƯ NGỎ

    Kính gửi :
-  Ông Trương Tấn Sang   – Chủ tịch nước CHXHCN VN.
- Ông Nguyễn Phú Trọng – Tổng Bí Thư BCH TW ĐCS VN.
-  Ông Nguyễn Sinh Hùng – Chủ Tịch Quốc Hội nước CHXHCN VN.
-  Ông Nguyễn Tấn Dũng  – Thủ Tướng Chính phủ nước CHXHCN VN.

Thưa các vị ,
Tôi là LÊ HIẾU ĐẰNG, công dân đang thường trú tại Quận 10 TP.HCM viết thư ngỏ này để đề nghị các vị với tư cách những nhà lãnh đạo cao nhất của Nhà nước, của Đảng làm sáng tỏ hai sự việc đã xảy ra trong thời gian gần đây mà xét đến cùng các vị cũng có phần trách nhiệm, nếu không nói là có trách nhiệm cao nhất.
Hai sự việc đó là :
1)Chủ trương cấm các cuộc biểu tình yêu nước ôn hòa chống bành trướng Trung Quốc của một bộ phận nhân sĩ, trí thức, nhân dân Thủ đô Hà Nội và sau đó là hành động bắt bớ, đàn áp những người biểu tình, dùng các phương tiện truyền thông, báo chí của Nhà nước phát những tin tức, hình ảnh lập lờ cố tình bôi xấu, chụp mũ “phản động” đối với một số nhân sĩ, trí thức, nhà văn mà nhân cách, uy tín và quá trình đấu tranh vì nền độc lập dân tộc, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam không ai có thể phủ nhận được.

Việc làm nêu trên hoàn toàn đi ngược lại khuyến cáo đầy thiện chí của các nhân sĩ, trí thức, trong đó có nhiều nhân sĩ trí thức văn nghệ sĩ ở Hà Nội và đông đảo anh chị em trong phong trào đấu tranh của sinh viên Sài Gòn trước 1975 trong Tuyên Cáo ngày 25/6/2011, xúc phạm nghiêm trọng đến nhân phẩm, danh dự của một số nhân sĩ trí thức, văn nghệ sĩ và một bộ phận nhâ dân Thủ đô Hà Nội đã từng tham dự các cuộc tuần hành, biểu tình yêu nước liên tiếp chống hành động bành trướng của Trung Quốc trong các buổi sáng Chủ nhật vừa qua.

2)Trong vòng đối thoại thường niên về quốc phòng giữa Việt Nam và Trung Quốc gần đây, ông Nguyễn Chí Vịnh – thứ trưởng Bộ Quốc phòng nước CHXHCN VN đã có những phát biểu mà nhiều người, trong đó có tôi và những người đã từng đấu tranh trong phong trào ở các thành thị Miền Nam trước 1975, cho rằng vượt thẩm quyền của một thứ trưởng Quốc phòng. Nội dung gây phẫn nộ trong những nhân sĩ, trí thức và đông đảo nhân dân là việc ông Vịnh đã thông báo cho phía Trung Quốc “Chủ trương kiên quyết xử lý vấn đề tụ tập đông người ở Việt Nam với tinh thần không để sự việc tái diễn” . Ông Vịnh nhân danh ai, nhân danh cái gì mà đã hạ mình để làm vui lòng nhà cầm quyền Trung Quốc khi thông báo và hứa với Trung Quốc như vậy. Việc nhân dân VN biểu tình chống lại hành động bành trướng xâm lược có hệ thống của tập đoàn cầm quyền Bắc Kinh và thái độ của nhà nước VN hoàn toàn là chuyện nội bộ của một nước có chủ quyền. Ông Nguyễn Chí Vịnh lấy quyền gì mà cam kết một cách nhục nhã với nhà cầm quyền Trung Quốc như vậy? Các vị với tư cách những nhà lãnh đạo cao nhất của Nhà nước VN, của Đảng Công Sản VN có ủy quyền cho ông Vịnh nói với Trung Quốc nội dung trên hay không? Hành động và lời nói của ông Vịnh đã xúc phạm nghiêm trọng đến lòng tự tôn và danh dự của cả môt dân tộc đã có một quá trình chống ngoại xâm vô cùng hiển hách.

Thưa các vị ,
Tôi nêu hai sự việc trên để các vị với tư cách những nhà lãnh đạo cao nhất của nhà nước và của Đảng, hơn nữa các vị đều là đại biểu của Quốc Hội, làm rõ trước công luận :

-   Hai sự việc nêu trên xảy ra gần đây có phải là chủ trương chính thức của Nhà nước VN, của Đảng Cộng Sản VN hay không ?

-   Nếu đây không phải là chủ trương chính thức của Nhà nước VN, của Đảng Cộng Sản VN thì các vị có biện pháp gì để kiểm điểm trách nhiệm đi đến xử lí, kỉ luật các cán bộ thuộc quyền đã có những hành động lạm quyền, vượt quyền, nếu không nói là lộng quyền như trên hay không ? Hay nói theo cách nói tế nhị của giáo sư Ngô Bảo Châu khi phê phán phiên tòa sơ thẩm xử tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ là “Có cố tình làm mất thể diện quốc gia, chắc cũng khó mà làm hơn mấy ông bà này ”.

Tôi với tư cách công dân, với tư cách một cử tri của Sài Gòn – TP.HCM dùng quyền chất vấn của mình để các vị làm rõ trước công luận hai sự việc nêu trên vì tôi quan niệm rằng trong một chế độ chính trị độc Đảng nếu Nhà nước không tự nghiêm khắc với chính mình thì hiện tượng lạm quyền, lộng quyền của những cán bộ có chức quyền sẽ làm trầm trọng thêm tệ quan liêu, tham nhũng, chuyên quyền, vi phạm nghiêm trọng đến lợi ích và các quyền công dân, chà đạp lên luật pháp, đe dọa sự tồn vong của dân tộc, của đất nước.

Qua thư ngỏ này, tôi tin tưởng rằng với trách nhiệm của mình, các vị sẽ có những biện pháp đấu tranh và ngăn chặn có hiệu quả để tránh nhửng sự việc đáng tiếc như đã xảy ra trong thời gian gần đây, để VN thân yêu của chúng ta hòa mình thật sự vào dòng chảy tự do, dân chủ, công bằng và tiến bộ xã hội hiện nay trên Thế giới ./.
Trân trọng,
TP.HCM, ngày 06 tháng 9 năm 2011
                                                                                                                                                           Kí tên ,
                                                                                                                                                                                LÊ HIẾU ĐẰNG
-   Nguyên Phó Tổng thư kí Uỷ Ban TW Liên Minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình VN (1968-1977);
-   Nguyên Tổng thư kí Uỷ Ban nhân dân Cách mạng khu Sài Gòn Gia Định ( 1969-1975);
-   Nguyên Phó Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc VN TP.HCM (1989-2009);
-   Đại biểu Hội đồng Nhân dân TP.HCM Khóa 4,5.

 

Nguồn: Ba Sàm.

Thứ Tư, 7 tháng 9, 2011

PHƯƠNG BÍCH: BƯỚC CHÂN VÀO CHỐN NGỤC TÙ (Phần cuối)

Trước cửa Hỏa Lò, Phương Bích gục vào lòng chú em Lê Dũng và khóc nức nở, mặc cho Nguyễn Xuân Diện khuyên giải hết lời.
Bước chân vào chốn ngục tù
Ghi chép của Phương Bích

Chị ơi lau nước mắt,
Chị đã ra tù rồi.
Còn đây muôn vạn nụ cười
Tấm lòng chị, có đất trời chứng minh!
(Nguyễn Xuân Diện)

Trong khi làm thủ tục ra trại, tôi biết Minh Hằng và Dũng cũng sẽ được thả. Rồi tôi băn khoăn không biết làm sao báo cho ai biết được để đi đón chúng tôi. Điện thoại không, tiền không, tôi nghĩ cứ gọi taxi hoặc xe ôm về nhà tôi, rồi trong khi Minh Hằng và Dũng ngồi chờ, tôi sẽ lên nhà lấy tiền trả.
Họ không cho tôi chờ hai người bạn ở trong trại. Tôi lơ ngơ đi ra ngoài, chả biết đâu là lối ra vì lúc vào ngồi trên xe bịt bùng, có biết giời đất gì đâu. Còn đang ngó quanh xem có taxi không thì nghe thấy tiếng kêu kéo dài:
 - Chị....
Từ xa, tôi trông thấy Nguyễn Vỹ chạy tới, nước mắt tôi trào ra, mặc dù mới chỉ nhìn thấy một mình Vỹ, nhưng thế là tôi biết các bạn tôi đã ở đây rồi. Hai chị em tôi ôm chặt lấy nhau, rồi đến Lê Dũng, Xuân Diện, Cường, Hiếu, Thủy, Trí Đức, bé Oanh, Kim Tiến, một phụ nữ tôi quen mặt nhưng chưa biết tên, người mà Xuân Diện kể cứ khóc suốt khi chúng tôi bị giam vào Hỏa Lò và một vài anh em khác tôi cũng chưa biết tên... Một lúc sau Tiến Nam phóng xe máy đến, nó chỉ kịp gạt chân chống xe rồi nhào tới ôm lấy tôi. Mới có ba ngày xa cách mà chị em tôi cứ ngỡ như đã lâu lắm rồi không được gặp nhau.
Cuộc hội ngộ trước cổng Hỏa Lò của những người trong nhóm biểu tình chắc chắn sẽ khiến những người dân quanh đó thấy rất lạ. Mấy anh lính gác thấy các tay máy cứ chĩa vào chụp lia lịa, vội vàng ra đề nghị chúng tôi giải tán. Sau khi đón đủ 3 người chúng tôi, tất cả mọi người lên xe kéo nhau đến một nhà hàng, trừ Dũng bị mẹ bắt về ngay. Tôi hiểu thái độ của mẹ Dũng, nên không dám nói gì với cô ấy, chỉ tiếc là Dũng không được tham gia cuộc vui với đồng đội sau những ngày bị giam giữ.
Chưa bao giờ chúng tôi được nhiều người quan tâm đến thế trong buổi tối hôm đó. Hàng chục cú điện thoại gọi đến mà tôi chẳng nghe được cuộc nào vì ồn ào quá, vì tai tôi có lẽ đã trở nên nghễnh ngãng nên cứ phải nhờ Cường nghe hộ. Thậm chí bác Ba Sàm tôi mới chỉ biết đến qua blog nổi tiếng của bác ấy cũng gọi điện đến hỏi thăm, bác giáo sư Ngô Đức Thọ đáng kính cũng muốn hỏi chuyện trực tiếp với tôi qua điện thoại, nhiều lắm những người bạn của tôi gọi điện đến chia sẻ niềm vui. Nghe nói có cả công an chìm trà trộn vào buổi liên hoan hội ngộ giữa những người biểu tình. Mặc dù tôi chả thấy có thiện cảm gì với gương mặt đó khi được nhận diện trên facebook, nhưng tôi không biết anh ta sẽ nghĩ gì trước cảnh những con người đủ mọi lứa tuổi, không hề có liên hệ máu mủ ruột rà gì, mà lại có thể mừng vui thắm thiết đến thế khi găp lại nhau. Liệu anh ta có thể tìm thấy được thái độ thù địch nào ở đây không? Tôi mà như anh ta thì hẳn tôi sẽ thấy buồn và ghen tị lắm.
Lê Dũng và Xuân Diện đưa tôi về nhà. Nhìn thấy tôi, bố hơi mếu một chút, anh trai tôi không nói gì nhiều, nhưng ánh mắt nhìn tôi không hề có chút gì trách móc.
Mặc dù ngày hôm sau phải đi làm ngay, nhưng đêm ấy tôi không ngủ được. Nếu có máy tính, chắc chắn tôi sẽ ngồi vào kể ngay câu chuyện 5 ngày ở tù của tôi.
Đoạn kết.
Ngày 26/8 đi làm, vừa vào đến cổng cơ quan, một anh dang tay nói:
- Cho tôi ôm người hùng cái nào.
Mấy cô bạn thì tíu tít hỏi thăm, có cô mắt đỏ hoe sụt sịt bảo:
- Làm em khóc hết nước mắt.
Cô ấy bảo trước đây mọi người chả ai quan tâm đến chuyện biểu tình chống TQ, nay thì truyền tay nhau đọc các bài của chị, rồi tìm hiểu về chuyện biểu tình thời gian qua, thế là tự dưng lại tuyên truyền hữu hiệu về chuyện biểu tình còn gì. Chỉ có riêng thằng N vẫn cứ không tin, bảo chắc phải được cái gì thì mới đi như thế chứ. Em thì em không cho nó là người xấu, chỉ là nó ấu trĩ thôi.
Ấu trĩ ư? Chẳng phải đâu. Tôi cho rằng những kẻ vốn quen làm việc theo tư duy xin cho, chỉ quen làm việc bằng phong bì thì làm sao hiểu được trên đời, có ai đó lại có thể sẵn sàng tự nguyện làm không công một việc gì đó giúp ích cho đời, ví dụ như có những người tự nguyện đi vớt rác trên sông, hay đi nhặt đinh tặc chẳng hạn. Thậm chí ngay cả trong việc làm từ thiện cũng có những kẻ làm chỉ để lấy danh chứ đâu phải vì lòng trắc ẩn.
Mẹ tôi thì thầm: hàng xóm có vẻ xa lánh nhà mình, sợ liên lụy. Trước đây mẹ tôi chỉ biết đọc báo in, xem ti vi. Sau khi con gái bị bắt, bị một số kẻ trong tổ dân phố đơm đặt, bà tức lắm, đòi đọc báo mạng, bảo để biết mà còn đấu lại.chứ.
Tôi vừa ra khỏi nhà thì chị tổ phó tổ dân phố chạy đến ôm chầm lấy tôi bảo: bọn chị ngày nào cũng mong ngóng tin em. Thậm chí định rủ nhau viết đơn để gửi lên cấp trên, thằng Hiển – một cậu nhát như cáy- nghe thấy thế bảo: em cũng ký.
Suốt từ hôm ra tù, tôi không có lúc nào rảnh rỗi để viết. Đến cơ quan thì bận bịu. Về nhà thì không có máy tính. Sốt ruột quá nên đành phải mua cái máy tính để bàn về. Máy mới, chương trình cài đặt sơ sài, mạng bị phá không vào được. Cặm cụi 3 đêm mới viết gần xong bài tường thuật.
Sau này tôi mới biết Vũ Quốc Ngữ dù chưa kịp tham gia biểu tình ngày 21/8, nhưng vẫn bị bắt giam 5 ngày như chúng tôi chỉ vì sự quan tâm đến đồng đội, để rồi bị đánh đập, bị sỉ nhục. Vậy thì so với những gì Ngữ đã trải qua, những ngày ở Hỏa Lò của chúng tôi đúng là chẳng thấm tháp vào đâu.
Trước khi dừng ở đây, tôi muốn cảm ơn tất cả những người đã quan tâm lo lắng cho chúng tôi trong những ngày qua, không ngoại trừ cả những người bạn tốt bụng đã chia sẻ từng miếng cơm, manh áo cho tôi trong những ngày tôi bị giam trong tù.
Hà Nội ngày 3/9/2011
Phương Bích
*
Một vài hình ảnh khi được trả tự do:
(Nguồn: Anh Ba Sàm)
Bích Phượng khóc nức nở khi nhìn thấy bạn bè ra đón – bloger Lê Dũng, blogger-TS Nguyễn Xuân Diện, …
 
Bộ cánh mà chị đang diện đây là của một người bạn tù cứu trợ
Minh Hằng áp dụng chế độ “ăn kiêng đặc biệt” trong mấy ngàyqua nên tỏ ra rất hiệu quả
 
Tí Hớn có cảm giác đón người thân ra tù, vì 2 năm trước cu cậu chưa thể biết khi bố Buôn Gió cùng cảnh ngộ như bác Hằng bây giờ

Chùm ảnh của Nguyễn Xuân Diện (dưới)
.
Các em Lê Dũng - Nguyễn Xuân Diện chờ các chị và các em ở cửa nhà tù Hỏa Lò từ rất sớm

Tiến Nam đưa lại Nguyễn Văn Dũng chiếc ví (trong có 10.000đ)









Chùm ảnh của Người Buôn gió (dưới)
 
Cháu bé áo vàng lặn lội một mình ra đón mọi người



Kẻ khóc người cười

 
 
Đoàn tụ trong nước mắt




Nỗi niềm đoạn trường


Phóng viên nhí tác nghiệp giúp bố

Anh nhớ gì không anh, những anh hùng đi giúp non sông. Đất nước bốn ngàn năm, đã bao lần chồn chân thạch mã, gỗ đá còn gian lao. Tiếng anh hào muôn thưở hơn nhau (trích bài Anh của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông)
Hai cháu bé ở ngõ Yên Bái chia sẻ niềm vui với người được về từ cõi ...tạm

PHƯƠNG BÍCH: BƯỚC CHÂN VÀO CHỐN NGỤC TÙ (5)

Ảnh: GS.TSKH Hoàng Xuân Phú
Bước chân vào chốn ngục tù
Ghi chép của Phương Bích
Trong Hỏa Lò
Tôi không hề cảm thấy hổ thẹn với lương tâm, chỉ choáng váng phút ban đầu khi nhìn cái còng số 8 bập vào tay mình. Một người phụ nữ hơn 50 tuổi như tôi, xấu hổ ngay cả khi nói to khiến người khác phải nhìn vào, chưa bao giờ ỷ thế vào bất cứ mối quan hệ nào để trục lợi cho bản thân mình, chưa bao giờ làm điều gì xấu xa, tổn hại đến bất cứ một cá nhân nào chứ nói gì đến đất nước. Vậy thì tại sao tôi lại phải hổ thẹn vì cái còng số 8 trên tay tôi lúc này đây. Dẫu cho họ có gán cho tôi cái tội danh gì đi chăng nữa, thì tôi chắc bạn bè và gia đình, những người biết tôi dù chỉ là trong thời gian ngắn ngủi nhất cũng sẽ không bao giờ nghĩ tôi là một kẻ có tội.
Lại được ở bên nhau trong lúc chờ đợi, Minh Hằng ngồi xuống bên cạnh, xiết chặt lấy bàn tay tôi nghẹn ngào:
- Tôi với bà từ nay không thể xa nhau được nữa rồi
Tôi rưng rưng nước mắt. Bây giờ tôi mới cảm nhận được, mỗi giây phút được ở bên đồng đội trong những ngày này quý giá đến thế nào. Họ phát cho chúng tôi mỗi người một mẩu giấy có ghi số, bảo đấy là số cơm của chúng tôi, số gọi đi cung, số gọi đi nhận quà tiếp tế.
Trước khi đi theo người dẫn chúng tôi vào trại, tôi đến bên hai người bạn tù áp giải chúng tôi trên xe, nắm lấy những bàn tay đang bị còng chào tạm biệt họ:
- Mình đi nhé, giữ gìn sức khỏe nhé.
Trong đôi mắt cô gái mở to ngước lên nhìn tôi lúc ấy, tôi cảm nhận có chút gì ấm áp trong đó, hoàn toàn không còn vẻ dữ dằn, phớt đời như lúc ban đầu. Chỉ một khoảng khắc ngắn ngủi ấy thôi, tôi vừa mừng vừa thấy xót xa về số phận của những con người này.
Đã đến đây rồi, tôi bình tĩnh chấp nhận tình thế, không còn bất ngờ trước mọi diễn biến nữa. Nỗi lo nhất của tôi là về bố, bây giờ thì chắc gia đình tôi cũng thu xếp ổn thỏa. Thương mẹ lại vất vả thêm, thương các anh chị có thể bị nhiễu nhương, phiền hà vì tôi.
Thái độ của những người tại khu giam giữ lịch sự và thân thiện, khác hẳn so với khu vực tiếp nhận tù vào trại. Có lẽ do tiếp xúc trưc tiếp với tù nhân, ít nhiều họ cũng cảm nhận được sự đau khổ vì mất tự do của những người tù nên họ nhẹ nhàng hơn chăng. Chỉ có một điều tôi nhận thấy ngay là không bao giờ họ cho tù nhân ngồi cao ngang hàng với họ. Ghế dành cho cán bộ là ghế tựa thông thường, còn ghế cho tù nhân khi làm việc với họ là những chiếc ghế thấp, để làm sao người tù luôn phải ngồi ở dưới chân họ.
Tuy nhiên ở đây đâu phải là chỗ để cho tôi có ý kiến. Tôi nghĩ sau này, tôi sẽ tìm hiểu kỹ hơn về luật pháp Việt Nam. Nếu có thể, sẽ kiến nghị lên các ông nghị bà nghị, đề nghị cải thiện chế độ nhà tù, để những người tù được đối xử tử tế hơn, nhân đạo hơn.
Mỗi một khâu là một cuộc thẩm vấn, ở đâu họ cũng hỏi chúng tôi làm sao lại bị bắt, hỏi lai lịch,  quê quán, chỗ ở, việc làm. Sau khi nghe chúng tôi nói, ông phụ trách gật gù:
- Các chị đã vào đây thì cứ chấp hành nội quy cho tốt. Còn có tội hay không có tội thì là với đảng và nhà nước, chứ không phải có tội với chúng tôi. Các chị cứ yên tâm, không có tội thì sẽ thả thôi.
Có lẽ lý do vào tù như chúng tôi ở đây là chưa bao giờ có, nên trong khi tôi ngồi dưới chân họ, nói về chuyện bộ đội ta bị bắn giết ở Gạc Ma, về ngư dân ta vái lạy lính Trung Quốc để được sống sau khi bị cướp hết tài sản, về gần 3 tháng qua chúng tôi- trong đó có rất nhiều nhân sĩ trí thức- chủ nhật tuần nào cũng đi biểu tình phản đối Trung Quốc xâm lược... những người đại diện pháp luật cai quản đám tù ở đây cứ nhìn chúng tôi chăm chú, ánh mắt họ tôi không tả chính xác được, chỉ biết khi đưa tôi vào phòng giam rồi, đích thân ông phụ trách đứng ngoài hành lang nói vọng vào với đám bạn tù mới của tôi:
- Chị ấy là trí thức, nhớ đối xử tử tế đấy.
Ước mơ hòa bình. Ảnh: Phạm Văn Mùi
Ôi chao, một nhân viên quèn như tôi, đi biểu tình chống Trung Quốc về bỗng trở thành trí thức! Nếu họ được tiếp xúc với các trí thức thật sự thì không biết họ sẽ “choáng” như thế nào. Tôi cũng không “cãi” lại ông phụ trách khi ông ấy nói, nếu có tội thì là có tội với đảng và nhà nước. Trong lòng tôi khi ấy thầm bật lại ngay tức thì: tôi chỉ tự hỏi, mình có làm gì đắc tội với Tổ quốc, với nhân dân hay không thôi. Tổ quốc và nhân dân đơn giản là mảnh đất tổ tiên cha ông tạo dựng nên, ở đó có cha có mẹ, có các anh chị em, bạn bè thân hữu, hàng xóm láng giềng.. ..tất cả những cái đó không dễ nói ra, nhưng nó là trường tồn và bất biến.
Lời dặn dò của ông phụ trách trại giam thực ra chỉ để tỏ thiện chí và sự tôn trọng của ông ấy, chứ đám bạn tù tốt ngoài sức tưởng tượng. Cả căn phòng rộng chỉ có 6 người, cộng với tôi là 7. Không khác gì khi ở buồng giam công an quận Hoàn Kiếm, tôi thở phào nhẹ nhõm khi nhìn những gương mặt đang tò mò quan sát tôi, không có vẻ mặt nào là hung dữ, bặm trợn.
Chúng tôi làm quen với nhau rất nhanh, hóa ra tất cả đều ít tuổi hơn tôi, vậy mà trông họ già quá. Tất cả họ đều bị tạm giam vì tội cờ bạc, hay mại dâm. Tuy là tạm giam nhưng người ở đây lâu nhất cũng đã gần 4 năm, sớm là hơn 2 năm. Họ chăm chú lắng nghe tôi nói chuyện, hết sức ngạc nhiên khi biết lý do tôi bị bắt. Cũng như nhiều người ở ngoài đời, họ chẳng biết gì về chuyện biên giới và hải đảo. Họ gật gù - có, có! Em có nhớ về thác Bản Giốc – như thể nó chỉ còn ở đâu đó trong một miền ký ức xa lắc, trong cái guồng quay nhọc nhằn của cuộc sống cơm áo, gạo tiền. Tôi lại là người hay chuyện, nói không bao giờ biết chán về cuộc sống. Hai cô bạn từ “giường” bên kia nhảy sang hóng chuyện. Các cán bộ quản giáo đi qua, ngó thấy cả bọn túm tụm vào một chỗ nghe tôi kể chuyện, không biết họ có cho rằng tôi “đầu độc, tuyên truyền” gì không.
Đã qua giờ cơm chiều từ lâu, nhưng các cán bộ quản giáo vẫn hỏi tôi có ăn cơm không để đi lấy. Tôi cảm ơn, nhưng chỉ xin được uống nước. Họ đưa cho tôi một chai nước còn nguyên “tem”, một cái khăn mặt mới và một bàn chải đánh răng. Một cô bạn tù trẻ nhất ép tôi uống bằng được một hộp sữa vinamilk, họ còn đưa cả bánh cho tôi ăn, đưa quần áo cho tôi thay. Thật khó lòng mà từ chối sự quan tâm của họ. Tôi hỏi thăm qua đám tù tự giác cũng như cán bộ quản giáo, họ bảo Minh Hằng vẫn khỏe, ăn uống bình thường. Tôi thực thà tin ngay, thế là trong ngày thứ ba và thứ tư, tôi đã đồng ý ăn cơm. Cơm của trại chỉ có cơm không và rau muống hấp. Rau ở đây còn nguyên xi gốc lẫn lá vàng, để trong một cái xô nhựa. Mọi người xúm lại nhặt bỏ hết lá, chỉ lấy một đoạn thân phía ngọn, rửa lại nhiều lần bằng nước uống trại cấp, đem ngâm nước muối rồi mới dám ăn. Cả một xô rau mà chỉ nhặt được một bát tô nhựa nhỏ. Thức ăn thì gia đình hàng tuần tiếp tế bằng cách mua tại căng tin của trại, chứ không được tự đem từ nhà vào. Thế là trại lại có lý do rất hợp pháp để kinh doanh. Tôi hỏi thì các bạn tù nói, gia đình tiếp tế cái gì đều nhận được đủ cả, không bị bớt xén tý gì.

23/8 -  Sang ngày thứ hai tôi vào Hỏa Lò, tức là ngày thứ ba tôi bị tạm giữ, không một ai đến “hỏi cung” tôi. Nếu tính theo giờ thì có nghĩa là đến 8 giờ 30 ngày mai – 24/8 là hết 3 ngày tạm giữ tôi. Mặc dù đã chấp nhận hoàn cảnh, nghĩa là tôi có giận dữ, đau buồn hay uất ức thì để sau này ra ngoài, còn bây giờ tôi chỉ còn biết chờ đợi. Vậy mà tôi vẫn tính từng giờ trôi qua, tự hỏi họ sẽ tìm ra cái cớ gì để tiếp tục giam giữ tôi. Thậm chí ngay cả khi không có chứng cớ gì, họ vẫn sẽ tận dụng hết 9 ngày để giam tôi cho bõ tức, cho tôi nhụt cái ý chí đòi quyền biểu tình của tôi đi, để răn đe những người khác trông đó mà coi chừng. Rồi tôi nghĩ ở bên ngoài, mọi người đang làm gì, có bị gây khó dễ không.
Ngày trở nên dài vô tận. Đám bạn tù giải khuây bằng cách ngêu ngao hát những bài nhạc chế. Đối với họ thì quá quen, nhưng với tôi nó vô cùng thú vị. Nó chứng tỏ mỗi một con người dẫu rất bình thường nhưng đều có cái tài lẻ nào đó. Họ hát hay, lời chế rất linh hoạt, đượm buồn. Trong khi họ thản nhiên hát, tôi lúc cười, lúc lại che mặt giấu đi những giọt nước mắt. Thương nhất là bài hát về tử tù: “ xin cha mẹ tha thứ cho con, phận làm con chữ hiếu chưa tròn...” kể về nước mắt người mẹ, về sự hối hận của đứa con, về mong muốn khi đã về bên kia thế giới, vẫn cố tìm đường trở về nhà qua làn khói, để rồi thấy bên bàn thờ bóng mẹ gầy và đàn em nhỏ thơ ngây...

24/8 – Lại một ngày dài nữa trôi qua, tôi càng tin rằng họ sẽ giữ tôi đến hết 9 ngày mà không cần thông báo. Khi mọi người đã chuẩn bị đi nằm thì tôi được gọi ra. Lúc đó đã gần 10 giờ đêm, họ cần gì tôi vào giờ này được?
Xuống đến tầng 1, tôi thấy lố nhố sáu bẩy cảnh sát đứng đó. Họ bảo tôi ký vào quyết định gia hạn tạm giữ thêm 3 ngày. Như một cái máy, tôi ký vào, thậm chí khi họ bảo tôi điền vào là 8 giờ 30 tôi cũng không để ý. Tất cả lúc này là tôi muốn quay trở về phòng ngay tức khắc, tôi không muốn bọn họ nhìn thấy vẻ mặt tôi lúc này.
Khi nằm xuống rồi, cơn phẫn nộ của tôi lúc đó mới trào lên. Tôi tự xỉ vả mình vì đã ký vào cái quyết định đó mà không kịp suy nghĩ gì, rằng vì sao tôi không yêu cầu được gặp điều tra viên để hỏi xem, ba ngày qua, họ điều tra được những chứng cớ gì để tiếp tục giam giữ tôi. Tôi phẫn uất quá nên gần như cả đêm ấy tôi không ngủ được, hễ cô quản giáo đi qua lần nào là đều thấy tôi mở mắt nhìn thao láo ra bên ngoài chờ trời sáng.

25/8 – Từ sáng sớm, tôi thấp thỏm chờ cô quản giáo đi qua để yêu cầu được gặp điều tra viên. Cô ấy nghe tôi nói rồi hứa sẽ chuyển lời.
Mặc dù tôi không tin là họ sẽ cho tôi gặp, nhưng quãng hơn 9 giờ, tức là gần đến giờ ăn trưa thì tôi được gọi ra ngoài. Tôi gặp Minh Hằng ở ngoài hành lang. Hai chúng tôi lại nắm chặt lấy tay nhau, lúc ấy tôi mới biết tất cả họ nói dối tôi, rằng từ hôm vào Minh Hằng không hề ăn gì. Nghe vậy tôi giận mình quá, nhưng Minh Hằng bảo tôi phải lượng sức mình.
Họ bắt chúng tôi mặc quần áo tù ra ngoài, hai chúng tôi nắm tay nhau đi ra ngoài khu vưc thẩm vấn phía ngoài cổng. Ở đó họ để chúng tôi chờ hết buổi sáng mà không có ai hỏi han gì. Lại quay trở về phòng giam. Mọi người đang ngủ trưa. Tôi uống nước cho dịu bớt cơn phẫn nộ và cái dạ dày đang sôi réo.
Buổi chiều, mọi người ngủ dậy, bắt tôi ăn cơm. Nhưng từ tối hôm qua tôi đã quyết định sẽ tuyệt thực để phản đối. Ước chùng quãng 1 rưỡi chiều, họ lại gọi chúng tôi ra. Chúng tôi có ba người nhưng lại chỉ có hai điều tra viên. Vậy là trong khi họ hỏi Minh Hằng và Dũng, tôi phải ngồi chờ ở bên ngoài. Suốt một buổi chiều, tôi cứ ngồi trong phòng chờ, chứng kiến bao nhiêu con người ra vào như mắc cửi. Mỗi người một số phận: ma túy, lừa đảo, và kể cả giết người. Một phụ nữ to béo trông rất ngầu, bị bắt vì bán lẻ ma túy, khi biết lý do tôi bị bắt bèn buột miệng chửi tục:
-       Ơ! Đ.mẹ, biểu tình chống Trung Quốc mà cũng bị bắt. [...] Sao mà ngu thế.
Tôi đang bực bội vì phải chờ đợi, nghe chị ta chửi dẻo quẹo cũng cảm thấy buồn cười.
Thế là lại sắp hết ngày, không biết bao giờ tôi mới được đối mặt với những kẻ buộc tội tôi đây. Vẫn chưa thấy Minh Hằng và Dũng quay trở ra, còn tôi lại bị đưa trở về phòng giam. Trước khi vào phòng, tôi ký vào biên bản về việc tôi sẽ không ăn cơm để phản đối việc bắt giữ tôi vô cớ, các cán bộ quản giáo bảo tôi làm thế chỉ thiệt thân thôi, nhưng tôi rất kiên quyết:
-    Nếu tôi có tội thì có tuyệt thực đến chết cũng không thoát tội. Còn thiệt thòi về thân xác cũng không thể quý giá bằng sự tự do của tôi được.
Lập xong biên bản, tôi quay trở về phòng, thay bộ quần áo của bạn tù cho mượn rồi bình tĩnh ngồi xuống. Tôi đã sẵn sàng chuẩn bị tinh thần cho cuộc đấu tranh sắp tới, bất chấp nó sẽ đưa tôi đến đâu. Nếu họ có thể kết án một người như tôi, thì thực là không còn tin được vào thứ công lý nào trong cuộc đời này nữa.
Chưa kịp chuyện trò, tôi thấy đám bạn tù nhốn nháo:
-    Chị được về rồi kìa
Tôi nghĩ họ trêu tôi, nhưng họ cứ cuống quýt lên:
-    Thật mà, cô bảo kia kìa, chị được về rồi.
Tôi ngó ra cửa, thấy cô quản giáo cầm chìa khóa đến mở cửa, đám bạn tù thì rối rít giục tôi thay quần áo. Tôi không hề ý thức được mình đang làm gì, thay quần áo như một cái máy rồi đi ra cửa. Một bạn tù đứng ở cửa sổ rên rỉ:
-   Ôi chị ơi, thế là là chị được về rồi.
Tôi nắm lấy cả hai bàn tay cô ấy đang thò ra ngoài chấn song cửa:
-   Chị đi nhé
Không kịp nhìn lại ai, tôi đi như người mất hồn theo cô quản giáo. Sau này tôi hết sức ân hận là đã không ôm lấy từng người trong bọn họ để tạm biệt, chỉ bởi lẽ đến lúc ấy tôi vẫn chưa thực sự tin là người ta chịu thả tôi. Dù chỉ ở với họ chưa đầy 3 ngày, nhưng tôi thực sự rất nhớ và thương họ vô cùng. Tôi thầm hứa một ngày gần đây, sẽ trở lại trại để gửi quà cho họ. Giá mà gửi được lời thăm hỏi đến họ thì tốt biết chừng nào.
Còn nữa...