nhà Huế học Nguyễn Đắc Xuân
GS Nguyễn Đăng Hưng
29-12-2017
Sau khi gặp lại nhà nghiên cứu về Huế Nguyễn Đắc Xuân ngay tại Huế, trong một chiều mưa, trò chuyện cùng nhau tôi phát hiện ra rất nhiều điều thú vị, có cả những điều mà tôi chưa được đọc!
Nay tôi muốn gửi đến anh những câu hỏi này. Tôi mong anh minh 
định, trình bày tóm gọn cho những người như tôi, không phải là nhà sử 
học, không có mặt tại Việt Nam trong giai đoạn dầu sôi lửa bỏng, một 
người dân Việt bình thường.!
Nếu anh thấy có câu hỏi tế nhị nhạy cảm anh có thể từ chối trả 
lời bởi vì trong cuộc đối thoại này tôi sẽ là nhà khoa học vô tư không 
định kiến, muốn biết và nói lên sự thật.
Là nhà Huế học, anh nghiên cứu và đưa ra những dữ kiện của triều 
Nguyễn, một triều đại phong kiến có trách nhiệm trong giai đoạn người 
Pháp xâm nhập nước ta, một triều đại để lại nhiều tranh cải giữa công và
 tội, giữa tối và sáng. Đọc anh tôi đã rất khâm phục anh vì anh đã không
 ngần ngại đặt ra nhiều vấn đề nhạy cảm, đã đem lại nhiều giải đáp 
thuyết phục. Ngay cả vai trò của Bảo Đại,đọc anh tôi có cảm tình lại với
 vị vua cuối cùng nổi tiếng là ăn chơi này của triều Nguyễn.
Nay anh công bố tác phẩm Phủ Dương Xuân tiền thân của Cung điện 
Đan Dương một công trình dài hơi đeo đuổi đã hơn 30 năm nay về đề án đi 
tìm mộ vua Quang Trung. Sau đây là 6 câu hỏi của tôi:
1- Anh có thấy hai việc làm song song về hai triều đại đối nghịch
 này có gây mâu thuẩn trong nội dung nghiên cứu của anh, có gây vấn đề 
cho anh trong quá trình điều tra nghiên cứu này không?
Nguyễn Đắc Xuân: Thưa anh Hưng, anh và tôi đã từng 
sống qua nhiều chế độ, đã trải nghiệm trong và ngoài nước nên đã thấy 
được sự thực: Trong nghiên cứu lịch sử, những gì không khách quan, không
 thực không bao giờ tồn tại được. Đối với hai triều đại Nguyễn Gia Miêu 
và Nguyễn Tây Sơn hay nói cách khác đối với vua Gia Long và Quang Trung 
tôi xem như cha tôi và mẹ tôi. Cha mẹ tôi có thể họ chống nhau, có thể 
giết nhau nhưng đối với tôi họ vẫn là cha tôi, họ vẫn là mẹ tôi. Tôi 
không thể đứng về phía nào hết. Tuy nhiên, để tôi và các thế hệ sau sống
 tốt hơn tôi phải biết cái xấu của cha tôi để tôi tránh và tôi phải biết
 cái đẹp của mẹ tôi để tôi noi theo và ngược lại.
Tuy nhiên trong thực tế xã hội không nghĩ như tôi. Tôi nghiên cứu về 
triều Nguyễn, thì những người ái mộ Quang Trung phê phán tôi làm tay sai
 cho một nhà nước đã để mất nước, những người ái mộ nhà Nguyễn lại phê 
phán tôi phản bội, trách tôi khơi dậy một đống tro tàn, hy sinh cho giặc
 loạn. May mắn là công việc nghiên cứu của tôi không vì danh lợi, không 
vì bằng cấp chức tước, không vì tiền. Tôi chỉ cống hiến kết quả sự đam 
mê nghiên cứu của mình cho đất nước mà thôi. Nhờ thế tôi vẫn “sống 
chung” được với người bên nầy và cả người bên kia.
2. Hướng đi tìm vị trí mộ vua Quang Trung của anh đưa ra không 
phải là duy nhất. Tôi đã đọc những ý kiến khác về đề tài này trong đó 
tôi thấy đôi khi có phần gay gắt! Anh nghĩ thế nào về sự tranh luận này?
Nguyễn Đắc Xuân: Có nhiều giả thuyết nói về lăng mộ 
vua Quang Trung. Nhưng cho đến năm 1988, chỉ còn hai giả thuyết: Một là 
lăng Ba Vành ở vùng núi phía sau nhà thờ Thiên An thuộc thôn Cư Chánh xã
 Thủy Bằng là lăng mộ vua Quang Trung (do thầy giáo Trần Viết Điền dạy 
Vật lý ở ĐH Sư phạm Huế được UBND Thành phố Huế tài trợ nghiên cứu và 
chuẩn bị được công nhận chính thức nhân 200 năm Hoàng đế Quang Trung lên
 ngôi ở Huế.
Hai là giả thuyết của cá nhân tôi: lăng mộ vua Quang Trung có tên là 
Đan Dương trong Cung điện Đan Dương trên gò Dương Xuân thuộc phường 
Trường An, TP Huế. Trong một hội thảo khoa học, giới sử học chính thống ở
 Huế và Hà Nội nghiên về phía giả thuyết của tôi. Thành phố Huế dừng lại
 việc tổ chức khánh thành công nhận lăng Ba Vành là lăng mộ vua Quang 
Trung. Tuy không được công nhận, không được bất cứ nhà nghiên cứu sử học
 nào ủng hộ nhưng Trần Viết Điền vẫn giữ giả thuyết Lăng Ba Vành của 
mình cho đến ngày nay. Một mặt Trần Viết Điền tìm cách chứng minh tiếp 
lăng Ba Vành là lăng mộ vua Quang Trung, mặt khác ngụy tạo nên những 
chứng cứ phi khoa học không ngừng tấn công Công trình Cung điện Đan 
Dương – sơn lăng của Hoàng đế Quang Trung của tôi. Lúc đầu tôi chứng 
minh những phản biện của Trần Viết Điền sai. Nhưng sau Trần Viết Điền 
vẫn không thay đổi, tôi không quan tâm nữa. Nhiều nhà báo, nhà nghiên 
cứu hỏi vì sao tôi không công nhận lăng Ba Vành là lăng mộ vua Quang 
Trung. Toàn bộ các nhà sử học VN ở trong và ngoài nước không công nhận 
chứ không phải riêng tôi. Tôi không công nhận lăng Ba Vành vì những lý 
do sau:
2.1. Công chúa Ngọc Hân – Bắc cung Hoàng hậu của vua Quang Trung qua 
đời ở Huế (1799), Đô đốc Hài bí mật đưa hài cốt Bà về quê, chôn ở Làng 
Nành (Bắc Ninh), dựng bia với tên một người bình thường. Đến đầu triều 
vua Thiệu Trị, dân làng Nành có mâu thuẫn bèn tố cáo ngôi mộ ấy đích thị
 là mộ Bắc Cung Hoàng hậu Lê Ngọc Hân. Vua Thiệu Trị được tin liền ra 
lệnh cho địa phương phải đào bới hài cốt Ngọc Hân vứt xuống sông ngay. 
Đối với Ngọc Hân (chị của Ngọc Bình – vợ thứ ba của vua Gia Long – cụ 
nội vua Thiệu Trị) mà triều Nguyễn còn xóa đi một cách nghiệt ngã đến 
thế, thì làm sao một phế tích lăng Ba Vành to đùng như thế nói là của 
vua Quang Trung có thể tồn tại hầu như nguyên vẹn ở đất Thần Kinh của 
Triều Nguyễn nầy được?
2.2. Sử Triều Nguyễn viết rất rõ: Nhà Nguyễn đã quật mồ, bổ săng 
(hòm) vua Quang Trung, bỏ đầu lâu vào vò nhốt vào ngục thất, lấy xương 
cốt giã nhỏ trộn với thuốc súng bắn vào không trung. Nấm mộ lăng Ba Vành
 chỉ bị khoét một lỗ rộng khoảng hơn 2m thì không thể nào lấy cái hòm 
vua Quang Trung (nếu có) ra được (Xem Ảnh 1).

Như vậy phế tích lăng Ba Vành không hội đủ điều kiện quật mồ, bổ săng
 như lịch sử đã ghi. Lăng Ba Vành không thể là lăng mộ vua Quang Trung.
2.3. Vua Quang Trung qua đời (1792), vua Quang Toản/ Cảnh Thịnh trị 
vì thêm 9 năm nữa (1792-1801), vô lẽ vua Quang Toản và triều đình Cảnh 
Thịnh nỡ nào lại dựng cho vua Quang Trung một tấm bia không có hoa văn, 
không đầu triệu, không có nội dung như tấm bia còn tồn tại đến ngày nay 
tại lăng Ba Vành thế sao ? Bia lăng vua Quang Trung quái đản vậy sao? 
(Xem Ảnh 2)

2.4. Thông thường: Sau khi vua băng hà, vợ con vua phải ra khỏi cung 
điện chuyển đến ở gần lăng mộ vua để sớm hôm hương khói cho vua, giao 
lại cung điện cho vua kế nghiệp. Như vậy, nếu lăng Ba Vành là lăng mộ 
vua Quang Trung thì chung quanh đó phải có dấu tích của một vùng cung 
điện dành cho gia đình vua ở, và cũng ở gần đó phải có nhiều giếng nước 
để phục vụ cho họ. Trong thực tế lăng Ba Vành chỉ là phế tích một ngôi 
lăng chơ vơ giữa một vùng núi non không hề có bất cứ một dấu tích cung 
điện nào, không hề có một cái giếng cổ từng phục vụ cho gia đình đông 
đảo của vua Quang Trung nào. Vì vậy lăng Ba Vành không thể nào là một 
ngôi lăng của bất cứ một vị vua nào.
2.5. Hơn nữa, lăng Ba Vành đã được Trần Đại Vinh – thầy giáo dạy Hán Nôm ở Đại học Sư phạm Huế chứng minh là lăng mộ Lê Quang Đại – một vị Thượng thư bộ Binh kiêm bộ Hộ dưới thời chúa Võ Vương. Kết quả đó đã được giới sử học chấp nhận và không bàn cãi nữa.
2.5. Hơn nữa, lăng Ba Vành đã được Trần Đại Vinh – thầy giáo dạy Hán Nôm ở Đại học Sư phạm Huế chứng minh là lăng mộ Lê Quang Đại – một vị Thượng thư bộ Binh kiêm bộ Hộ dưới thời chúa Võ Vương. Kết quả đó đã được giới sử học chấp nhận và không bàn cãi nữa.
Cuộc tranh luận lăng Ba Vành – lăng Đan Dương là cuộc tranh luận kéo 
dài hàng chục năm chưa từng xảy ra ở đâu. Một bên làm khoa học và một 
bên có đầu óc bất bình thường. Do đó nhiều khi không tránh được sự gay 
gắt. Gay gắt để đi đến chân lý đóng góp cho lịch sử cũng phải chấp nhận.
 Còn gay gắt vì tự ái cá nhân phi khoa học rồi ra sẽ là chuyện vui trong
 giới nghiên cứu mà thôi.
3- Anh đã âm thầm dấn thân vào một công trình nghiên cứu
 dài hơi một cách khá đơn độc, nay đã được Viện sử học và cơ quan chính 
quyền Thừa Thiên – Huế quan tâm và ủng hộ nhưng cũng có phần hơi muộn 
màng! Đâu là cảm nghĩ của anh về việc này?
Nguyễn Đắc Xuân: Giả thuyết Cung điện Đan Dương là 
sơn lăng của Hoàng đế Quang Trung của tôi cơ bản đã được công nhận từ 
năm 1991. Cái giả thuyết đó đã giúp cho thành phố Huế tránh được một sai
 lầm không đáng có của một Trung tâm văn hóa lớn của dân tộc. Đó là việc
 dừng lại lễ khánh thành công nhận lăng Ba Vành là lăng mộ vua Quang 
Trung. Các vị lãnh đạo chủ chốt của tỉnh Bình Trị Thiên, GS Trần Quốc 
Vượng, nhà Quảng Nam học Nguyễn Văn Xuân, các nhà nghiên cứu Việt Nam 
học ở Hà Nội… liên tục đến thăm hiện trường nghiên cứu ở gò Dương Xuân 
và chúc mừng thành công của tôi.
Đặc biệt, sau khi nghiên cứu công trình của tôi học giả Hoàng Xuân 
Hãn ở Pháp đã viết thư công nhận công trình nghiên cứu của tôi đúng và 
góp ý với các địa phương có liên quan đến Quang Trung nên xây dựng và 
khai thác du lịch công trình nầy như thế nào. Có lẽ anh Hưng đã đọc lá 
thư ấy trong các sách về Cung điện Đan Dương của tôi đã xuất bản. Đến 
năm kỷ niệm 200 năm vua Quang Trung qua đời (1792-1992) Viện Sử học in 
cuốn Đi tìm lăng mộ vua Quang Trung trong Tủ 
sách Tài liệu tham khảo lịch sử Việt Nam. Như vậy tôi tưởng nhà nước sẽ 
vào cuộc cùng tôi kiểm nghiệm những thông tin liên ngành khoa học tôi đã
 khám phá và hiện vật, thực địa, khảo cổ vùng chùa Vạn Phước-chùa Thiền 
Lâm để xây dựng khu tưởng niệm khai thác du lịch như thầy Hoàng Xuân Hãn
 đã góp ý. Nhưng không hiểu sao công trình của tôi rơi vào yên lặng.
Tuy không được Hội Sử học TTH, không được lãnh đạo TTH quan tâm nhưng
 tôi vẫn không ngừng sưu tập tư liệu, nghiên cứu bổ sung thêm nhiều 
thông tin để cho công trình nghiên cứu của tôi ngày càng vững chắc hơn. 
Năm 2006 qua Hoa Kỳ, tôi có dịp được trao đổi với nhà Tây Sơn học GS 
Georges Dutton (tác giả The Tây Sơn Uprising) của Hoa Kỳ. George bảo 
tôi: “Dấu tích lăng Đan Dương nằm trong Cung điện Đan Dương giống 
như cái bu-ri trong đầu máy ô-tô. Cái ô-tô là Cung điện Đan Dương anh đã
 tìm được rồi thì anh nên nhấn mạnh đến Cung điện Đan Dương, Cung điện 
Đan Dương mới quan trọng, Cung điện Đan Dương được công nhận rồi thì sau
 đó khai quật tìm dấu vết lăng Đan Dương có khó gì đâu”.
Với góp ý của George tôi về VN, bổ sung thêm tài liệu tôi xin tái bản cuốn sách với nhan đề mới Đi tìm dấu tích Cung điện Đan Dương – sơn lăng của Hoàng đế Quang Trung”
 (Thuận Hóa 2007). Sách ra đời tôi được mời đi giới thiệu nhiều nơi ở 
Huế, Hà Nội, Hội Sử học TP HCM. TTNC Quốc học của GS Mai Quốc Liên gởi 
thư cho Bộ Văn hóa giới thiệu sách và đề nghị Bộ Văn hóa vào cuộc. Nhưng
 rồi đâu lại vào đó.
Năm 2015 tôi lại bổ sung tài liệu tái bản sách một lần nữa…May mắn 
lần tái bản nầy cuốn sách lọt vào tay ông Nguyễn Quốc Kỳ TGĐ Vietravel. 
Và sau đó mới có chuyện tỉnh TTH tổ chức Hội thảo khoa học, mới có 
chuyện khảo cổ khai quật thăm dò, mới có chuyện tỉnh TTH giao cho bảo 
tàng lịch sử TTH mời Viện Khảo cổ khai quật tiếp để xác định ranh giới 
của khu di tích Phủ Dương Xuân tiền thân của Cung điện Đan Dương, thu 
nhặt hiện vật cổ đã bị chôn vùi trong lòng đất. v.v…
Tôi thì quá ngao ngán rồi. Nhiều nhà nghiên cứu, nhiều bạn bè tôi 
trong đó có anh cũng thấy khó hiểu. Nhưng anh ơi chuyện quá đơn giản 
thôi, trong một cuộc gặp gỡ PGS TS Đỗ Bang – Phó Chủ tịch Hội KHLS VN, 
Chủ tịch nhiều khóa Hội KHLS TTH, hé lộ cho tôi biết “Sở dĩ…vì tôi không chạy”.
 Thật bất ngờ. Tôi lấy gì mà chạy? Chạy ai? Chạy để làm gì? Bất ngờ hơn 
cả việc đi tìm dấu tích Cung điện Đan Dương. Nhưng may sao, sau hơn 30 
năm, tôi không chạy đâu cả mà công trình cũng đã đến được nhà tài trợ 
Vietravel, đến GS Phan Huy Lê – nguyên Hội trưởng Hội Sử học, đến PGS TS
 Bùi Văn Liêm – Phó Viện trưởng thường trực Viện Khảo Cổ học. v.v… Công 
trình của tôi không còn của tôi nữa. Sắp tới là việc của nhà nước.
Kết thúc công việc nghiên cứu của mình, tôi làm ba việc: Một là dồn 
hết việc nghiên cứu, cùng tài liệu, ý kiến phản biện phản phản biện vào 
cuốn Phủ Dương Xuân thời các chúa Nguyễn tiền thân của Cung điện Đan Dương sơn lăng của Hoàng đế Quang Trung mà
 anh đã có trong tay, hai là lập trang Web cungdiendanduong.net để giúp 
cho các nhà nghiên cứu có tài liệu lập lại dấu tích thời đại Quang Trung
 ở Huế, và ba là thực hiện bộ phim tài liệu 5 tập đang làm hậu kỳ để lưu
 lại công trình nghiên cứu của tôi cho bây giờ và mai sau. Tất cả tôi sẽ
 trao từ từ cho Nhóm Nghiên cứu Đan Dương đang làm việc với tôi. Nếu có 
chuyện gì bất bình thường xảy ra với tôi, công trình Đan Dương không bị 
thiệt hại gì cả.
Còn chuyện chạy ai, chạy như thế nào, không chạy thì sao, tôi sẽ 
trình bày rõ trong hồi ký 1/3 thế kỷ tìm đến Đan Dương sẽ gởi đến anh 
sau.
 4. Việc khai quật tìm kiếm hiện vật tại chỗ đã mang lại một số 
dữ liệu chứng cứ nhất định nhưng chưa khẳng định dứt khoát giả thuyết 
của anh. Anh có ý kiến gì trong tương lai cho những khai quật tiếp theo 
và anh có kỳ vọng cụ thể nào về hướng tiếp tục của giới sử học, khảo cổ 
học Việt Nam cho đề tài này? Tại sao tôi vẫn chưa thấy một luận văn tiến
 sỹ nào về đề tài này?
Nguyễn Đắc Xuân: Thưa anh Hưng, vấn đề của tôi như 
thế nầy. Qua thông tin liên ngành khoa học và thực địa tại ấp Bình An 
trên gò Dương Xuân hơn ba mươi năm qua tôi đã đưa đến kết quả sau: Thời 
các chúa Nguyễn đóng thủ phủ ở bờ bắc sông Hương, hằng năm các chúa phải
 chịu nhiều trận lũ lụt. Có nhiều khi suýt chết. Thời chúa Nguyễn Phúc 
Tần cho dựng một ngôi phủ trên gò Dương Xuân hơi xa bờ nam sông Hương 
một chút để các chúa sống vào những tháng mưa bão lụt cuối năm. Ngôi phủ
 nầy mang nhiều tên. Tên chính thức là Phủ Dương Xuân, vì nó ở trên cao 
nên cũng gọi Phủ Thượng. Năm 1700 chúa Nguyễn Phúc Chu trùng tu Phủ đào 
được một cái ấn nên đặt tên là Phủ Ấn, người phương Tây (Pièrre Poivre) 
đến Huế gọi là Cung điện Mùa Đông (Résidence d’hiver).
Năm 1774 quân Trịnh chiếm Phú Xuân, nhiều nhà quan, nhà lính ở Phú 
Xuân bị quân Trịnh phá lấy gỗ làm củi đốt nhưng phủ Dương Xuân thuộc tài
 sản của nhà nước nên không hề hấn gì. Năm 1786, Nguyễn Huệ từ Quy Nhơn 
đưa quân ra đánh chiếm Phú Xuân. Lấy được Phú Xuân nhưng ông không vào ở
 trong Đô thành Phú Xuân xây dựng từ thời Nguyễn Phúc Khoát. Ông chiếm 
Phủ Dương Xuân làm dinh của ông. Đối với Nguyễn Huệ, dinh nầy có 3 cái 
lợi: Thứ nhất không sợ thủy binh địch, thứ hai gần đường Thượng đạo vô 
nam ra bắc, thứ ba thuận tiện cho đội quân phần lớn là người Thượng với 
voi ngựa không quen sống bên sông nước của Đô thành Phú Xuân bên bờ bắc 
sông Hương.
Lấy được Phú Xuân, Nguyễn Huệ đưa quân ra Thăng Long làm nhiệm vụ 
“phù Lê diệt Trịnh”. Hoàn thành nhiệm vụ Nguyễn Huệ trở lại Phú Xuân cho
 xây gấp rút một bức thành cao 20 pi-ê chung quanh dinh ông để cất giữ 
những của cải, vàng bạc ông thu được ở Thăng Long. Cuối năm 1788 ông lên
 ngôi Hoàng đế lấy niên hiệu là Quang Trung rồi tiến quân ra Bắc diệt 29
 vạn quân Thanh. Đầu năm 1789, ông trở lại Phú Xuân, xây dựng thêm nhà 
cửa mở rộng Dinh ông thành Cung điện Đan Dương.
Năm 1792, ông qua đời đột ngột, để giữ bí mật với thù trong giặc 
ngoài, ông được táng ngay trong Cung điện Đan Dương. Từ đó Cung điện Đan
 Dương trở thành Đan Lăng hay Đan Dương lăng của vua Quang Trung. Năm 
1801, trở lại Phú Xuân, Nguyễn Vương (Nguyễn Ánh, sau nầy là vua Gia 
Long) cho đập phá hết Cung điện Đan Dương chôn sâu xuống đất, quật mồ, 
bổ săn lấy xương cốt vua Quang Trung giã nát bắn vào không trung, đầu 
lâu bỏ vào vò nhốt vào ngục thất, đổi tên đất cũ Long Sơn có Cung điện 
Đan Dương thành ấp Bình An (giống như Quy Nhơn đổi thành Bình Định, ấp 
Tây Sơn đổi thành An Tây vậy), cấm dân không được lai vãng đến đây. Sách
 sử dư luận không được nhắc “giặc loạn”.
Công trình của tôi đã được HTKH Cung điện Đan Dương thời Tây Sơn ở 
Huế” (30-10-2015) do GS Phan Huy Lê – Chủ tịch Hội KHLS VN kết luận: 
“Lịch sử chùa Thiền Lâm đúng, không còn gì phải bàn cãi nữa. Có Cung 
điện Đan Dương và có cả lăng Đan Dương trong khu vực chùa Thiền Lâm-chùa
 Vạn Phước. Nhưng cụ thể như thế nào cần phải khai quật khảo cổ học. Đến
 tháng 10-2016, với sự tài trợ của Vietravel, Viện Khảo cổ học cùng với 
Bảo tàng Lịch sử TTH tổ chức khai quật thăm dò 5 hố trên gò Dương Xuân. 
Đến tháng 1 năm 2017, dưới sự chủ trì của GS Phan Huy Lê – nguyên Chủ 
tịch Hội KHLS VN, TS Phan Tiến Dũng – Giám đốc sở VHTTDL, PGS TS Bùi Văn
 Liêm công bố kết quả đợt khai quật thăm dò cuối năm 2016 đã nhận định 
bước đầu: Di tích gò Dương Xuân có liên quan đến giai đoạn lịch sử nhất 
định, có dấu tích kiến trúc, nền móng liên quan đến tường thành, mộ táng
 và nơi cư trú. Tư liệu hiện vật có niên đại tập trung nhất ở Thế kỷ 
XVIII như: Gốm sứ niên đại Khang Hy; bát gốm sứ He-zen (Nhật Bản) những 
tư liệu về đồ sắt và gạch ngói. Những điều kỳ lạ về các tấm bia bị đục 
xóa không còn nội dung lịch sử hay những chân cột đá tảng có mật độ phân
 bố dày đặc, gạch, ngói, đá Thanh được nghi là công trình của Cung điện,
 lăng mộ không phải của “người thường”. Về niên đại: Dựa vào tổng thể di
 tích, tư liệu địa tầng, các mảnh sứ có ghi niên đại, các mảnh sành, 
gạch ngói… bước đầu có thể đoán định niên đại di tích gò Dương Xuân tập 
trung từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX kéo dài đến đầu thế kỷ XX. Với những
 hiện vật và cái móng đá (Xem ảnh 3) trên đó là những biểu hiện chứng tỏ
 dưới lòng đất gò Dương Xuân đã có nhiều kiến trúc cùng với hiện vật của
 đời sống vua chúa quý tộc (chuôi kiếm, chén bác, đĩa Nhật, Trung Quốc).

Tất cả các hiện vật dân chúng phát hiện hàng trăm năm qua, cộng với 
các hiện vật thu được trong khai quật cuối năm 2016 đã quá đủ chứng tỏ 
dưới lòng đất gò Dương Xuân đã có một vùng cung điện đã bị đập phá chôn 
vùi. Như vậy công trình nghiên cứu Cung điện Đan Dương bị đập phá chôn 
vùi của tôi đã có kết quả. Còn chuyện dấu tích lăng Đan Dương của vua 
Quang Trung ở đâu, ranh giới Cung điện Đan Dương rộng hẹp như thế nào 
còn chờ các cuộc khai quật tiếp.
Các cuộc khai quật tiếp ngoài khả năng của tôi. Công việc nghiên cứu Cung điện Đan Dương của tôi tạm dừng ở đây. Cung điện Đan Dương sẽ được trùng tu tái tạo thành một khu tưởng niệm Hoàng đế Quang Trung, một khu du lịch hấp dẫn có giá trị lịch sử chỉ còn là vấn đề thời gian. Với những hiện vật dân chúng đã phát hiện được, những hiện vật vừa khai quật được và vô số hiện vật sẽ khai quật được sắp tới đủ để bên cạnh Cung điện Đan Dương thế nào cũng có một Bảo tàng Quang Trung Tây Sơn hết sức quý giá. Còn anh hỏi “Tại sao tôi vẫn chưa thấy một luận văn tiến sỹ nào về đề tài này?” Tôi kính nhờ các Viện, các Đại học ở VN và các nước bạn bè của VN trả lời hộ tôi.
Các cuộc khai quật tiếp ngoài khả năng của tôi. Công việc nghiên cứu Cung điện Đan Dương của tôi tạm dừng ở đây. Cung điện Đan Dương sẽ được trùng tu tái tạo thành một khu tưởng niệm Hoàng đế Quang Trung, một khu du lịch hấp dẫn có giá trị lịch sử chỉ còn là vấn đề thời gian. Với những hiện vật dân chúng đã phát hiện được, những hiện vật vừa khai quật được và vô số hiện vật sẽ khai quật được sắp tới đủ để bên cạnh Cung điện Đan Dương thế nào cũng có một Bảo tàng Quang Trung Tây Sơn hết sức quý giá. Còn anh hỏi “Tại sao tôi vẫn chưa thấy một luận văn tiến sỹ nào về đề tài này?” Tôi kính nhờ các Viện, các Đại học ở VN và các nước bạn bè của VN trả lời hộ tôi.
 5. Sau khi anh đăng lên Facebook tin về buổi gặp gỡ đêm mưa tại 
Huế vừa qua của chúng ta, có một số người qua tin nhắn đã nhắn nhở tôi 
về vai trò của anh tại Huế trong biến cố Mậu Thân 1968. Họ không có bằng
 chứng cụ thể nhưng trách anh có trách nhiệm về vụ thảm sát người dân 
khi quân Giải Phóng tiến vào Huế. Anh có lời nào xác định rõ vai trò của
 anh nhất là phần trách nhiệm của anh cũng như của nhà văn Hoàng Phủ 
Ngọc Tường?
Nguyễn Đắc Xuân: Thưa anh Hưng, chuyện tôi và anh 
Tường trong Chiến dịch Tết Mậu thân 1968 tôi đã viết rất đầy đủ trong 
Hồi ký Từ Phú Xuân Đến Huế tập III, Nxb Trẻ 2012. Báo Tuổi Trẻ cũng đã 
trích đăng trên 10 số. Nay tôi tóm lại từ đầu đến cuối với anh đây:
Tháng 7-1966, Tôi lên rừng và gặp lại Hoàng Phủ Ngọc Tường sau gần 
một tháng xa nhau. Chúng tôi làm khách ở Thành ủy Huế. Cuối năm 1966, 
sau một trận B. 52 dội vào cơ quan Thành ủy, may không ai bị thương tích
 gì nặng, tôi và anh Tường được chuyển qua viết báo Cờ Giải Phóng do bác
 Ưng Trí – cháu nội Tuy Lý Vương phụ trách. Đến cuối năm 1967, tôi và 
anh Tường được gọi trở lại cơ quan Thành ủy góp ý cho việc thành lập một
 mặt trận thứ hai có khả năng thu hút được nhiều thành phần yêu nước 
tham gia. Hai chúng tôi làm việc trực tiếp với anh Lê Tự Nhiên (khu ủy 
Trị Thiên Huế) và anh Hoàng Phương Thảo (Phó Bí thư Thành ủy Huế) kể 
chuyện những việc Phong trào ở Huế đã làm trong cuộc đấu tranh chống Mỹ 
Thiệu Kỳ mùa hè năm 1966. Cuối cùng lãnh đạo Thành ủy Huế vận dụng kinh 
nghiệm của cuộc đấu tranh Mùa hè 1966 lập nên Liên minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hòa bình Thành phố Huế. Thiết kế lá cờ của Liên Minh, theo chiều dọc chia làm ba phần bằng nhau, giữa đỏ, hai bên xanh.

Anh Tường được giao nhiệm vụ thảo Cương lĩnh của Liên Minh, tôi được 
giao việc in (thủ công) ronéo hàng ngàn Cương Lĩnh. Thành ủy viết thư 
mời các nhân sĩ trí thức ở Huế tham gia Liên Minh. Sau nầy tôi được biết
 có các vị: Tiến sĩ Lê Văn Hảo, bà quả phụ Nguyễn Đình Chi, một Thượng 
tọa ở chùa Từ Đàm, cụ Nguyễn Đóa, ông Tôn Thất Dương Tiềm, ông Nguyễn 
Thúc Tuân. v.v… Tất cả đều nhận lời. Riêng vị Thượng tọa ở chùa Từ Đàm 
không gặp được nên chuyển qua mời Thượng tọa Thích Đôn Hậu ở chùa Thiên 
Mụ. Anh Tường được cử phụ trách công tác Liên Minh. Sau khi Liên Minh 
được thành lập chính thức, TS Lê Văn Hảo làm Chủ tịch, Hoàng Phủ Ngọc 
Tường giữ chức Tổng thư Ký, tôi là ủy viên Thanh niên của Liên Minh.
Chiến dịch mở ra, tôi không được phân công việc gì hết. Tôi đi theo 
lãnh đạo Cánh Bắc do anh Trần Anh Liên (người Hà Nội) làm chánh ủy. Được
 về Huế với tinh thần về luôn, tôi sung sướng vô cùng. Về đến Huế tôi 
được đến nhận công tác ở địa bàn từ cửa Đông Ba qua Cửa Thượng Tứ thuộc 
Quận Nhất do nhạc sĩ Nguyễn Hữu Vấn làm Quận trưởng. Tôi gặp anh Hoàng 
Kim Loan lãnh đạo chính trị ở Quận Nhất:
– Thưa anh, bây giờ em làm gì đây?
Anh Loan cười và bảo tôi:
– Trước đây trong Phong trào tranh đấu anh làm gì thì bây giờ anh hãy làm những việc ấy!
Tôi không ngờ được giao nhiệm vụ cách mạng một cách rộng rãi đến vậy.
 Thế là tôi xông vào cuộc. Đi thăm tất cả những gia đình thân quen cũ 
trong địa bàn tôi được phân công công tác. Tôi mời (nói rủ thì đúng hơn)
 thanh niên sinh viên học sinh vào đoàn Thanh niên tự vệ Thành Nội, tôi 
vận động binh lính VNCH về nghỉ tết tham gia đoàn Nghĩa binh (do Đại úy 
Nguyễn Văn Lợi đứng đầu), tôi đề nghị Thiếu tá Cảnh sát trưởng Huế – 
Nguyễn Cán lập đoàn Cảnh sát Nghĩa binh[1]
 và nhiều việc giúp dân khác. Đặc biệt tôi đã cứu được nhiều người trong
 Thành Nội suýt chết vì những thông tin tình báo sai lạc như trường hợp 
họa sĩ Lê Văn Tài[2], thầy giáo L. Kh. Ph., nhiếp ảnh gia Lê Quang[3].
Tôi dám làm những việc trên vì qua các Phong trào tranh đấu tôi biết 
những người ấy là ai. Công việc chính của tôi trong Chiến dịch là cùng 
đoàn Thanh niên Tự vệ Thành nội lo vận động thanh niên đi bộ đội, lo hậu
 cần cho các tổ công tác, lo giúp dân đào hầm trú ẩn, lo đưa người bị 
thương lên Trạm phẫu Tiền phương, lo chôn cất tử sĩ ngay dọc bờ thành từ
 Đông Ba ra đến Thượng Tứ.
Trải qua 50 năm rồi, tôi không thể nhớ hết những việc chúng tôi đã 
làm. Tôi hy vọng các bạn trong đơn vị tôi như Nguyễn Thị Đoan Trinh (TP 
HCM), Lê Hữu Dũng (TP HCM), Hồ Tịnh Tình (TP HCM), Họa sĩ Lê Văn Tài (Úc
 châu), Nguyễn Kim Cương (Đà Nẵng), Đặng Văn Sở (Đà Nẵng), Trần Thân Mỹ 
(ở Huế). v. v. đọc được phỏng vấn nầy sẽ bổ sung giúp những việc không 
còn trong ký ức tôi.
Suốt thời gian chiến dịch Tết Mậu Thân diễn ra ở Huế, Hoàng Phủ Ngọc 
Tường ở lại chiến khu làm việc với các vị Liên Minh vừa rời Thành phố 
lên rừng. Hằng ngày anh nghe tin tức chiến trường qua Radio và báo lại 
với các vị Liên Minh. Sau nầy tôi nghe người nầy người kia viết chuyện 
gặp anh Tường ở Huế trong Tết Mậu Thân thì quá buồn cười. Có người dẫn 
chứng anh Tường có về Huế trong Tết Mậu Thân. Vì có về Huế, Tường mới 
viết được bút ký Ngôi Sao Trên Đỉnh Phu Văn Lâu.
Anh Tường nổi tiếng là người viết ký hay và không ngờ cuốn bút ký nầy
 đã hại anh. Sự thực là như thế nầy. Tôi là “con ma” viết nhật ký. Trong
 thời gian Tết Mậu Thân chiến trường rất ác liệt nhưng trong Nhật ký của
 tôi không sót ngày nào. Tôi đã ghi chép khá kỹ về những hoạt động của 
Giải phóng ở cửa Đông Ba, những hoạt động của thanh niên Thành Nội trong
 Đội Tự vệ của tôi bổ sung cho bộ đội giữ Cột cờ Thành Nội.
Đầu năm 1969, chúng tôi dự Đại hội Văn nghệ Trị Thiên ở biên giới 
Lào. Sau đó chúng tôi được ở lại vùng an toàn một thời gian. Để khỏi mất
 thì giờ chúng tôi tổ chức viết về Tết Mậu Thân. Tôi viết về hai cô 
người Mỹ theo đạo Quaker bị bắt hồi Tết Mậu Thân, Hoàng Phủ Ngọc Tường 
khai thác Nhật ký của tôi viết về những thanh niên Huế bảo vệ cột cờ 
Thành Nội viết cuốn Ngôi Sao Trên Đỉnh Phu Văn Lâu, Nguyễn Khoa Điềm cũng khai thác Nhật ký của tôi viết về những hoạt động ở cửa Đông Ba viết cuốn Cửa Thép. Bài của tôi không được in vì hai cô Mỹ đã được thả, không nên công bố những điều các cô đã nói với Mặt trận Giải phóng.
Hai cuốn sách của anh Tường và của anh Điềm được in. Tôi nghe vậy chứ
 cũng chưa thấy hai cuốn sách đó mặt mũi ra sao. Anh Tường trước sau 
cũng chỉ là một người của Liên Minh được bảo vệ an toàn cùng với các 
nhân sĩ ở Huế trong địa đạo Khe Trái trên vùng núi huyện hương Trà. Tôi 
có nghe người ta nói anh Tường có phát biểu điều gì đó với báo chí ngoại
 quốc, gây sốc mấy chục năm nay. Tôi không nghe nhưng không ngạc nhiên 
vì cái tính bạn tôi rất “nghệ sĩ”, “tả” không ai bằng Tường mà “hữu” 
cũng cực kỳ ấn tượng. Bản thân tôi, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn nhiều lúc 
cũng khổ vì “lập trường đột xuất của Tường”. Các bạn tôi có nhận xét là 
“Anh Tường bị hiểu lầm vì vạ miệng”. Thế thôi!
Khẩu hiệu của tết Mậu Thân 1968 là “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy 
nhào”, thì chuyện bắt bớ, giết chóc chắc chắn phải xảy ra. Nhưng những 
việc đó không ai giao cho những người hoạt động dân vận với tư cách Liên
 Minh như chúng tôi. Chúng tôi chỉ chịu trách nhiệm của những việc mình 
làm như vừa trả lời anh trên đây. 
 6. Anh có mối giao tình khắn khít với các nhân vật mà đức độ và 
tài năng là điều ai cũng công nhận như thiền sư Thích Nhất Hạnh, GSTS 
Trần Văn Khê, anh cũng rất thân với các nhạc sỹ lừng danh người Việt như
 Nhạc sỹ Trịnh Công Sơn, Phạm Duy, các vị trên có bao giờ đặt cho anh 
câu hỏi tế nhị trên đây như tôi đang đặt không?
Nguyễn Đắc Xuân: TS Lê văn Hảo – Chủ tịch Liên Minh 
các LLDTDC và HB Thành phố Huế, dù anh không về Huế trong tết Mậu Thân 
nhưng qua tổ chức anh biết rõ tôi đã làm gì trong Tết Mậu Thân và anh đã
 nói với GS Trần Văn Khê về tôi trước khi GS Trần gặp lại tôi ở Huế 
(1976). Sau nầy nhiều lần GS Trần chúc mừng tôi là đã cứu được bao nhiêu
 mạng người trong tết Mậu Thân. Không có người thứ hai dám cứu người 
trong hoàn cảnh như thế. Có lẽ vì yêu quý tôi nên GS Trần mới để di chúc
 giao cho tôi cùng hai người bạn tổ chức đám tang cho Giáo sư như anh đã
 biết.
Đối với anh Phạm Duy thì tôi được gần gũi hơn. Anh Phạm Duy nói với 
Bolsa TV về tôi rằng: “Một nhà thơ Phật giáo tâm huyết tự hào với các 
bài thơ Để Lại Cho Em, Nhân Danh, Chuyện Hai Người Lính do tôi 
phổ nhạc thì làm sao khi bị rượt đuổi lên rừng không đoàn viên, không 
đảng viên chỉ có vài năm mà có thể trở thành đồ tể này nọ được. Các bạn 
nên tìm sự thực đi”. Và sau đó Bolsa TV đã tìm hiểu và biết được sự thực
 là bà Nhã Ca tưởng tôi chết rồi dựng chuyện để cho tập bút ký Giải Khăn
 Sô Cho Huế thêm hấp dẫn mà thôi. Không ngờ tôi vẫn sống nên bà rất sợ.
Từ năm 2000, tôi là người em thân thiết nhất của Phạm Duy ở VN. Anh 
Hưng cũng đã thấy sự thân thiết của chúng tôi như thế nào khi tôi đưa 
anh đến thăm anh Phạm Duy ở Lê Đại Hành, Tân Bình, TP HCM năm ấy. Tôi là
 người gần gũi Phạm Duy trong những ngày cuối đời của anh và cũng là 
người tham gia tổ chức đám tang cho Phạm Duy.
Còn Trịnh Công Sơn tác giả “Chiều đi qua bãi dâu hát trên những xác người”
 với đám bạn kháng chiến của Sơn nói chuyện về Tết Mậu Thân nhiều lần. 
Sơn biết rõ công việc của Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân trong 
tết Mậu Thân như thế nào.
Năm  1988 tôi giúp cho Thành ủy Huế làm cuốn sách Huế Xuân 1968.
 Trong đó có bài “Những Điều Chưa Nói Đến” nói về chuyện tôi đã lập các 
đoàn Nghĩa Binh, Cảnh Sát Nghĩa Binh như thế nào. Những người đi theo 
tôi đều thoát chết. Sơn và những người bạn của Sơn ở Thành phố cho đó là
 hành động rất dũng cảm. Họa sĩ Đinh Cường, bạn rất thân của Trịnh Công 
Sơn đã giúp tôi vẽ cái bìa cuốn sách Huế Xuân 1968. Ở Huế mà tham gia làm sách Mậu Thân cũng là một hành động dũng cảm.
Tôi cũng xin nói với anh Hưng: Nhiều lần anh nghĩ là tôi ở giữa hai 
lằn đạn. Chưa đúng đâu. Còn nữa. Tôi là Sinh viên Phật tử tham gia chống
 chế độ Ngô Đình Diệm, ông Diệm bị chính người của ông lật đổ, nhưng 
những người suy tôn ông Diệm xem Phật giáo, xem tôi là kẻ có tội, họ 
không bao giờ nhìn tôi một cách khách quan đâu.
Trước khi đi kháng chiến tôi là Phật tử không tham gia đảng phái 
chính trị nào, không bị đảng phái nào lôi kéo cho nên các đảng phái 
chính trị họ xem tôi là kẻ đối lập. Tôi là “người quốc gia” trưởng thành
 ở Huế bỗng dưng đi kháng chiến, những người nhận mình là người quốc gia
 lên án tôi là “ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng sản”, tôi là người phản bội.
 Tôi biết thế cho nên tôi sống tốt đến đâu, sách vở viết cụ thể đến như 
thế nào đi nữa thì những người có các xu hướng chính trị ấy không bao 
giờ chịu hiểu tôi như anh đã hiểu tôi. Tôi chấp nhận hết. Tôi đã nguyện,
 tôi sẽ đi đến cuối con đường mà hoàn cảnh đất nước đã chọn cho tôi. Nếu
 không may tôi bị một thế lực nào đó hóa kiếp, tôi tin những người tử tế
 còn lại sẽ hiểu tôi đã chết vì nước chứ không phải vì bất cứ một điều 
gì khác.
Và cũng qua cuộc phỏng vấn nầy, có ai thấy tôi viết sai điều gì xin chỉ giáo hộ để tôi còn sửa chữa trước khi nhắm mắt. Cám ơn trước.
Sài Gòn, 2 ngày trước Noel 2017!
GS Nguyễn Đăng Hưng
____
[1] Những việc nầy tôi đã viết trong Huế Xuân 1968, (Thành ủy in năm 1988). Sau năm 1975, ông Nguyễn Cán mở công – ty đắp lốp ô-tô, ông mới mất năm 2002.
[2] Xem “họa sĩ Lê Văn Tài “Đóng góp với Cách mạng một cái chân”, Nguyễn Đắc Xuân Từ Phú Xuân Đến Huế (Hồi ký), tập III, Nxb Trẻ 2012, tr.122-134.
[3] Chuyện tôi cứu nhiếp ảnh gia Lê Quang được Mark Bowden kể lại trong cuốn Huế 1968 tại tr. 456-457.


 

 
Tài liệu liên quan tới vai trò của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong thảm sát Mậu Thân 1968 tại Huế:
Trả lờiXóaTrích [ Hoàng Phủ Ngọc Tường:
Trước khi chúng ta trở lại nói chuyện về văn học nghệ thuật, tôi nhờ anh tóm tắt lại cho tôi ba điều với những độc giả sau này đọc bài nói chuyện của chúng ta hôm nay.
Nguyễn Đức Tùng:
Thưa anh, đó là ba điều gì?
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
Thứ nhất là tôi không liên quan gì đến vụ Mậu Thân. Thứ hai, tôi rất mong muốn có một chính phủ hòa giải dân tộc. Trước đây tôi đã nghĩ như thế mà bây giờ tôi vẫn nghĩ như thế. Chính phủ hiện nay không phải là chính phủ hòa giải dân tộc, mà là chính phủ của thể chế cộng sản. Thứ ba, tôi không liên quan gì đến đảng Cộng sản hiện nay cả. Họ không làm được những điều mà tôi mong ước ở họ. Họ không làm được những gì cho dân tộc như thời trẻ lúc đi kháng chiến chống Mỹ tôi đã từng kỳ vọng ở họ.] (ngưng trích).
Toàn văn bài phỏng vấn HPNT: http://damau.org/archives/38341/comment-page-1#comment-65840
Trả lời:
1-. HY em không là người Huế, không quen biết Hoàng Phủ Ngọc Tường, chẳng có cuốn sách nào của Hoàng Phủ Ngọc Tường, do đó, liên quan đến biến cố Mậu Thân 68 đẫm máu, sau khi đọc bài phỏng vấn này của GS Nguyễn Đăng Hưng, HY em chỉ đưa ra đây 2 tài liệu ‘sống’ mà chính Hoàng Phủ Ngọc Tường là vai chính, các bạn tự thẩm định.
Hoàng Phủ Ngọc Tường tự mâu thuẫn về thảm sát Mậu Thân 1968:
A-. Năm 1982 thì tự nhận có mặt tại Huế trong Tết Mậu Thân 1968 (đài Open Vault, từ phút 00 đến phút 15:00);
B-. Năm 1997 lại chối bay chối biến (Thụy Khuê phỏng vần HPNT – RFI, 12/7/1997 từ phút 15:00).
Video: https://www.youtube.com/watch?v=wk0AKvmwRrk
2-. Văn bản Thụy Khuê phỏng vấn HPNT: http://thuykhue.free.fr/tk97/nchpngoctuong.html
Cám ơn Hải Ý, cùng một câu chuyện mà lúc nói có lúc nói không thì rõ ràng là ông Hoàng Phủ Ngọc Tường không đáng tin. Nhóm được đặt tên là "Hung thần Mậu Thân" gồm có những người chính là ông Nguyễn Đắc Xuân này, ông HP Ngọc Tường, bà Đoan Trinh. Nhưng bà Đoan Trinh không thấy nói hay viết gì bao giờ thì phải. Các ông Nguyễn Đắc Xuân, Ngọc Tường luôn tự nói vô tội với thảm sát này nhưng vấn đề là khó có ai tin (qua những nhân chứng sống). Làm điềm chỉ đâu cần ra mặt lộ hết thì sao có kết quả tốt được hở các ông.
XóaNên phỏng vấn ông này về biến cố Mậu Thân, cũng là một vấn đề của Huế!
Trả lờiXóaHãy đọc hồi ký của bà Nguyễn thị thái Hoà thì sẽ thấy rỏ, Nguyễn đắc Xuân là ai trong tết Mậu thân.
Trả lờiXóahttp://batkhuat.net/van-cauchuyen-nguyenthithaihoa.htm
Xin lỗi, không phải Nguyễn đắc Xuân mà là Hoàng phủ ngọc Phan, em của Hoàng phủ ngọc Tường.
XóaVà đây là một nhân chứng khác trong tết Mậu thân :
Trả lờiXóahttps://hon-viet.co.uk/LmNguyenHuuGiai_VuThamSatTaiKheDaMaiTetMauThan1968.htm