Lê Hiếu Đằng (1944 - 2014)
Vĩnh biệt Anh Lê Hiếu
Đằng!
Điếu văn của bạn hữu do BS Huỳnh Tấn Mẫm đọc
tại Lễ Truy điệu Luật gia Lê Hiếu Đằng sáng ngày 26.01.2014
Thưa quý vị,
thưa quý bằng hữu,
Thay mặt Ban tang lễ và gia đình Anh Lê Hiếu Đằng, chúng tôi xin chân thành cám ơn quý vị đã đến đây viếng Anh lần cuối mà cũng để từ biệt Anh lần cuối. Chúng ta đã chứng kiến những ngày tháng sau cùng khi Anh vừa chống chọi với căn bệnh hiểm nghèo, vừa đau đáu một lòng đối với vận mệnh đầy cam go hiện nay của đất nước. Và hôm nay, chúng ta đau buồn biết rằng sẽ không bao giờ còn có thể gặp lại Anh trên thế gian này một lần nào nữa. Anh đã vĩnh viễn từ giã chúng ta để đi về Miền Tĩnh Lặng của riêng Anh và cũng là Miền Anh Linh của những tinh hoa dân tộc.
Anh Lê Hiếu Đằng sinh ngày 06.01 năm 1944, tại Đà Nẵng, Quảng Nam, nguyên quán Thừa Thiên - Huế. Sau khi học xong Tú tài phần 1 ở Đà Nẵng, Anh ra Huế hoàn thành Tú Tài phần 2, chính ở nơi đây, Anh đã tiếp cận phong trào đấu tranh của sinh viên học sinh xung quanh sự biến 1963, và đã trả giá cho thái độ đầu tiên về chính trị đó bằng sự kiện bị chính quyền Sàigòn giam vào lao Thừa Phủ. 1964, theo gia đình vào Sài gòn, ghi danh học Đại học Luật, rồi từ những hoạt động công khai trong cộng đồng sinh viên, Anh bí mật liên hệ với phong trào cách mạng và trở thành cơ sở của Đảng uỷ sinh viên và Thành đoàn Sài Gòn. Năm 1968, cùng với một số trí thức, nhân sĩ thuộc “lực lượng thứ ba”, Anh ra chiến khu tham gia Liên Minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hoà bình (khu Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định), tổ chức này ra đời để vận động cho cuộc hoà giải dân tộc, chấm dứt chiến tranh và Anh đã bị chế độ cũ kết án tử hình vắng mặt. Năm 1969 Anh được hai ông Huỳnh Tấn Phát và Tôn Thất Dương Kỵ giới thiệu vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Khi đất nước thống nhất, sau một thời gian đảm nhiệm công tác đào tạo cán bộ tại các trường Đảng ở Sài Gòn đến 1983, Anh được điều động về Mặt Trận với chức danh Phó Chủ tịch Uỷ ban Mặt Trận Tổ quốc Thành phố Hồ Chí Minh, và giữ chức danh này cho đến khi về hưu. Gần đây, vướng phải căn bệnh ngặt nghèo, được gia đình, bạn bè, các y, bác sĩ hết lòng giúp đỡ điều trị nhưng do bệnh tình quá trầm trọng, Anh đã trút hơi thở cuối cùng vào ngày 22.01.2014, lúc 22 giờ, tại Bệnh viện 115, hưởng thọ 70 tuổi.
Thay mặt Ban tang lễ và gia đình Anh Lê Hiếu Đằng, chúng tôi xin chân thành cám ơn quý vị đã đến đây viếng Anh lần cuối mà cũng để từ biệt Anh lần cuối. Chúng ta đã chứng kiến những ngày tháng sau cùng khi Anh vừa chống chọi với căn bệnh hiểm nghèo, vừa đau đáu một lòng đối với vận mệnh đầy cam go hiện nay của đất nước. Và hôm nay, chúng ta đau buồn biết rằng sẽ không bao giờ còn có thể gặp lại Anh trên thế gian này một lần nào nữa. Anh đã vĩnh viễn từ giã chúng ta để đi về Miền Tĩnh Lặng của riêng Anh và cũng là Miền Anh Linh của những tinh hoa dân tộc.
Anh Lê Hiếu Đằng sinh ngày 06.01 năm 1944, tại Đà Nẵng, Quảng Nam, nguyên quán Thừa Thiên - Huế. Sau khi học xong Tú tài phần 1 ở Đà Nẵng, Anh ra Huế hoàn thành Tú Tài phần 2, chính ở nơi đây, Anh đã tiếp cận phong trào đấu tranh của sinh viên học sinh xung quanh sự biến 1963, và đã trả giá cho thái độ đầu tiên về chính trị đó bằng sự kiện bị chính quyền Sàigòn giam vào lao Thừa Phủ. 1964, theo gia đình vào Sài gòn, ghi danh học Đại học Luật, rồi từ những hoạt động công khai trong cộng đồng sinh viên, Anh bí mật liên hệ với phong trào cách mạng và trở thành cơ sở của Đảng uỷ sinh viên và Thành đoàn Sài Gòn. Năm 1968, cùng với một số trí thức, nhân sĩ thuộc “lực lượng thứ ba”, Anh ra chiến khu tham gia Liên Minh các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hoà bình (khu Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định), tổ chức này ra đời để vận động cho cuộc hoà giải dân tộc, chấm dứt chiến tranh và Anh đã bị chế độ cũ kết án tử hình vắng mặt. Năm 1969 Anh được hai ông Huỳnh Tấn Phát và Tôn Thất Dương Kỵ giới thiệu vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Khi đất nước thống nhất, sau một thời gian đảm nhiệm công tác đào tạo cán bộ tại các trường Đảng ở Sài Gòn đến 1983, Anh được điều động về Mặt Trận với chức danh Phó Chủ tịch Uỷ ban Mặt Trận Tổ quốc Thành phố Hồ Chí Minh, và giữ chức danh này cho đến khi về hưu. Gần đây, vướng phải căn bệnh ngặt nghèo, được gia đình, bạn bè, các y, bác sĩ hết lòng giúp đỡ điều trị nhưng do bệnh tình quá trầm trọng, Anh đã trút hơi thở cuối cùng vào ngày 22.01.2014, lúc 22 giờ, tại Bệnh viện 115, hưởng thọ 70 tuổi.
Qua mấy nét tiểu sử trên đây, chúng ta thấy xuyên suốt cuộc đời Anh, vận mệnh của đất nước là điều không lúc nào rời khỏi sự bận tâm suy nghĩ của Anh. Thái độ đó đã thể hiện rất sớm khi Anh mới chỉ là một học sinh trung học và có lẽ rất sớm như vậy vì đã diễn ra trong hoàn cảnh một đất nước liên tục bị các thế lực bên ngoài xâm lược thống trị, mà vào thời Anh lớn lên là tình thế tổ quốc bị chia đôi sau 1954: do không thống nhất được trong hoà bình, những xung đột tiềm ẩn nội tại đã bùng lên với sự can thiệp trực tiếp của chính quyền Mỹ bấy giờ, cuối cùng phát triển thành một cuộc đối đầu quân sự vô cùng tàn khốc, có nguy cơ đẩy cả dân tộc vào một thảm hoạ huỷ diệt chưa từng có. Sự chọn lựa chính trị của Anh đã phát sinh từ tình thế đó và thường được giải thích như một thức tỉnh mang tính truyền thống của những thanh niên trí thức trước họa ngoại xâm. Nhưng như tất cả chúng ta đều biết: sự chọn lựa của Anh không dừng lại ở tình tự yêu nước tự nhiên đó mà lại được bồi đắp cho mạnh mẽ hơn bằng một niềm tin mới mẻ, hấp dẫn hơn nhiều lần: đó là niềm tin vào một thứ chủ nghĩa cộng sản nào đó mà Anh tin rằng sau này khi nước nhà đã độc lập trong thống nhất, hoà bình, nếu đem ra áp dụng, chúng ta sẽ kiến tạo nên được một xã hội tốt đẹp bội phần. Anh đã gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam cũng vì niềm tin ấy, sống chết với Đảng Cộng sản suốt 45 năm kể từ ngay Anh gia nhập cũng vì niềm tin ấy.
Giữ gìn sự liêm khiết là công việc bình thường, điều quan trọng hơn nhiều lần với Anh chính là thái độ bảo vệ sự trong sáng làm nên những nguyên lý về phẩm chất để thực hiện cho được lý tưởng của mình. Cũng chính vì quan niệm như vậy mà trước những chuệch choạc, bế tắc, sai lầm của Đảng Cộng sản trong việc đem lý tưởng ra thực hiện, Anh đã có những phản ứng rất mạnh mẽ đi đôi với những đề xuất táo bạo để chấn chỉnh. Thái độ nhiều khi khá gay gắt của Anh đều xuất phát từ nỗi ưu tư của Anh về vận mệnh của toàn dân tộc: những sai lầm ấy nếu không được khắc phục một cách triệt để, thì đất nước sẽ suy sụp toàn diện và không thể nào tránh khỏi nguy cơ rơi vào vòng xiềng xích của ngoại bang một lần nữa, dưới một hình thức thâm độc hơn nhiều lần. Giữ gìn cho được những phẩm chất làm nên cái lý tưởng lành mạnh ban đầu trong thời kỳ tranh đấu giải phóng dân tộc hầu như đã trở thành chuẩn mực định hướng cho mọi hành động của Anh. Lý tưởng đó có thể điều chỉnh cho thực tế hơn, mang ra thực hiện bằng những biện pháp thích đáng hơn, nhưng cái mơ ước ban đầu về một xã hội tương lai tất yếu phải tốt đẹp hơn quá khứ đối với Anh vẫn là cái đích đến, không thể quên lãng, nhất là không thể cố tình xoá bỏ bằng những lời nói đãi bôi để che giấu những toan tính chà đạp con người, bán đứng đất nước, đi ngược lại quyền lợi của tổ quốc, của nhân dân.
Cũng chính vì vậy mỗi khi có dịp nhắc lại những tháng ngày gian khổ cũ của mình như một tổng kết về cuộc sống, Anh không hề tỏ ra tiếc nuối với những gì đã làm để phải trách móc bản thân hay “sám hối” với ai khác cả. Những gì diễn ra trong quá khứ đối với Anh là một hành trình thể nghiệm đầy hào sảng, cần phân tích thấu đáo nhiều mặt để tiếp sức cho cuộc chiến đấu hôm nay với những nội dung và biện pháp khác, trong những điều kiện mới của đất nước. Với những ai hiểu Anh thì những gì Anh bộc lộ trong thời gian gần đây cũng chỉ biểu hiện cho những dằn vặt và đau xót về sự suy đồi đến mức thảm hại những giá trị mà những lớp người như Anh đã bỏ tuổi xuân và xương máu để chắt chiu nuôi dưỡng. Một số quyết định đến mức quyết liệt của Anh vào lúc cuối đời sẽ hoàn toàn lý giải được khi chúng ta biết tất cả đều không bắt nguồn từ đâu ngoài sự phẫn nộ trước những thứ làm vẩn đục những nguyên tắc đơn giản nhưng thiêng liêng, tạo nên cái cái lý tưởng cải biến xã hội mà Anh đã tiếp nhận được từ thời trai trẻ trong tranh đấu. Đó là độc lập dân tộc, cải thiện dân sinh, xây dựng cho kỳ được nền dân chủ tiến bộ trong tự do và phẩm giá, xứng đáng với bao khát vọng và hy sinh cao cả của nhân dân yêu quý.
Anh Đằng thân thiết!
Với những việc Anh đã làm, với những phẩm chất mà Anh gửi lại cho những người thân thích, những bạn bè xa gần của Anh, Anh có quyền thanh thản an nghỉ trong Miền Yên tĩnh của riêng Anh với những bài tình ca mà Anh mang theo trong suốt cuộc đời dấn thân đầy lãng mạn của mình. Cuộc từ biệt mang lẽ tử sinh này sẽ để lại cho anh em chúng tôi, những bằng hữu, những người thân của Anh, nhiều kỷ niệm tốt đẹp cùng với nhiều điều thật đáng suy ngẫm về cuộc đấu tranh thay đổi đời sống, những suy ngẫm cũng là những thao thức mà chắc hẳn không một ai trong chúng ta có thể tránh mặt được mỗi khi tưởng nhớ đến Anh. Những ước nguyện chưa thành của Anh nhất định sẽ được thế hệ sau gánh vác và thực hiện!
Đau đớn vĩnh biệt Anh, người Bạn thân thiết, nhà Trí thức dũng cảm, trang Hiền sĩ đáng kính, đáng yêu trong tâm khảm của thế hệ hôm nay!
___________________
09h05: Từ Sài Gòn, Blogger Huỳnh Ngọc Chênh cho biết:
Gần 1000 người, từ sáng tinh mơ đã có mặt tại chùa Xá Lợi để tiễn đưa anh Lê Hiếu Đằng. Nhiều mái đầu bạc lẫn trong những mái đầu xanh. Tiếng đàn violon trầm trầm của nghệ sĩ Tạ Trí Hải từ trong lặng im nhẹ nhẹ ngân lên, lớn dần rồi vang xa. Nhiều tiếng sụt sùi. Nhiều giọt nước mắt. Nhưng tất cả đều đứng nghiêm trang và kính cẩn. Lời giới thiệu của giáo sư Hoàng Dũng cất lên mời mọi người vào phút mặc niệm. Nhưng mọi người đã mặc niệm từ lâu. Rồi với giọng nhẹ nhàng của bác sĩ Huỳnh Tấn Mẫm, điếu văn tiễn biệt nhà yêu nước, người bạn, người anh thân thương hòa theo tiếng violon trầm buồn cứ thế đi vào lòng mọi người.
Vừa lúc chấm dứt bài điếu văn của BS Huỳnh Tấn Mẫm, rồi lời cảm tạ của chị Giang Thị Hồng- phu nhân của anh Đằng, giọng hát Miên Đức Thắng vút lên cao dẫn dắt tất cả mọi người cùng hòa vào bài ca Tự Nguyện...Nếu là chim tôi sẽ là bồ câu trắng... nếu là người tôi sẽ chết cho quê hương.
Những người thân thương, những người quý mến và ngưỡng mộ anh Lê Hiếu Đằng đã bước theo sau quan tài anh kéo dài thành đoàn người từ chùa Xá Lợi ra đến hết đường Ngô Thì Nhiệm...
Anh đã ra đi. Nhưng tinh thần của anh vẫn còn ở lại với anh em.
"sống chết với Đảng Cộng sản suốt 45 năm kể từ ngay Anh gia nhập cũng vì niềm tin ấy". đáng lẽ nên viết: "sống chết với Đảng Cộng sản suốt 45 năm cho đến gần hết cuộc đời".
Trả lờiXóaANH LÊ HIẾU ĐẰNG MẤT ĐI BẠN BÈ VÀ NGƯỜI THÂN THƯƠNG NHỚ NHIỀU, NOI GƯƠNG ANH ĐẤU TRANH CHO MỘT ĐẤT NƯỚC DÂN CHỦ GIÀU MẠNH, NHƯNG THẾ LỰC THÙ ĐỊCH CỦA ANH ĐANG RẤT VUI !!!
XóaKhi bắt đầu phút mặc niệm, có mấy chú em bên AN cũng buông máy quay, cúi đầu mặc niệm. Khi mọi người hát, nước mắt mình cứ chảy ra. Thấy có chú em AN mắt cũng đỏ hoe. Tình người là vậy. Với anh Đằng, ý nghĩa của những giọt nước mắt còn lớn hơn những cảm xúc thông thường.
Trả lờiXóaTiếng đàn violon của lão nghệ sĩ của NHÂN DÂN Tạ Trí Hải cứ rót vào vào tim mõi người. Tai nghe và tim thổn thức.
Trả lờiXóaTừ Hà Nội, trong niềm xót thương vô hạn, xin kính cẩn vĩnh biệt LG. Lê Hiếu Đằng, nhà chí sỹ xuất sắc đầu thế kỷ XXI. Linh hồn (nếu có) của các bậc tiên liệt sẽ chào đón ông với tất cả sự trân trọng, mến yêu. Ông rất gần với Nguyễn Trãi ở tấc lòng ưu ái với dân với nước “Đêm ngày cuồn cuộn nước triều Đông”. Ông đặc biệt gần gũi với các cụ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Lương Văn Can, Nguyễn Thành, Tăng Bạt Hổ, Trần Quý Cáp,… (nhiều cụ quê Quảng Nam, đồng quận với ông) ở lý tưởng canh tân đất nước, bằng một con đường khác chứ không phải con đường cũ.
Trả lờiXóaCảm ơn BS. Huỳnh Tấn Mẫm, trong một bài điếu văn ngắn gọn nhưng đã nói được phẩm chất đáng kính của nhà chí sỹ Lê Hiếu Đằng cùng những tình cảm và ý nguyện của những người đang sống. Cảm ơn các nhân sỹ, trí thức miền Nam đã rất chu đáo từ khi người đồng chí của mình lâm bệnh cho đến ngày hôm nay, chính thức vĩnh biệt chúng ta.
Đào TIến Thi
Nền giáo dục miền Nam (VNCH) xưa kia dạy cho thanh niên như thế đó :
Trả lờiXóa" ... Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuôn chiều
Cũng không nói yêu thành ghét
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu . ( Đây là trích bài thơ Lời mẹ dặn của Phùng Quán nhưng báo chí miền Nam vẵn dăng tải (hình như tuần sang Tiểu thuyết thứ bảy?). Thế hệ LH Đằng hầu như ai cũng biết và thích. LHĐ đã sống với tinh thần " Dù ai cầm dao dọa giết - cũng không nói ghét thành yêu'' từ thời thanh niên cho đến cuối đời mình.) ( NNT, người cùng thế hệ)
Một bài điếu văn trí tuệ, ôn tồn và minh bạch! Nó nói lên tính cách trước sau như một của phong trào SVHS và trí thức miền Nam và cả hải ngoại trước đây: hào sảng và lãng mạn, không bao giờ chịu cúi đầu trước cường quyền dù đến từ đâu! Thế đứng ấy có thể thất bại, chua xót, nhưng khảng khái và trong sáng biết bao giũa dòng đời đục ngầu đầy rẫy bọn tham quan ô lại này! Đó là lương tâm dân tộc! Ta chắc rằng Điếu văn được soạn như một thông điệp, không để làm vừa lòng một ai cả, mà để thức tỉnh tất cả! Xin cúi đầu bái biệt Anh Linh Lê Hiếu Đằng!
Trả lờiXóaThế hệ của Anh Lê hiếu Đằng, Anh Lê Quang VỊNH,Huỳnh Tấn Mẫn...là những người để lại Ấn tượng vô cùng lớn cho lớp Thanh niên thời đó,Chúng Tôi coi các Anh là ngọn cờ kêu gọi Thanh niên lên đường vào Nam đánh MỸ ...xin kính cẩn trước vong Linh Anh Lê hiếu Đằng.
Trả lờiXóaXin cúi đầu và cầu nguyện để tiễn đưa ông một người con yêu nước đúng nghĩa !
Trả lờiXóaCó chi tiết sai trong bản điếu văn. Đó là năm 1969, ông Lê Hiếu Đằng được kết nạp vào Đảng Nhân dân cách mạng miền Nam chứ không phải Đảng cộng sản Việt Nam
Trả lờiXóa