Người thơ trong cõi
nhân gian ấy
Trần Vũ Long
Nhà thơ Đoàn Việt Bắc tên thật là Đoàn Đình Hảo, sinh năm 1949. Quê
Quán: Hải Yến, Phù Tiên, Hưng Yên. Do sức ép của bom đạn trong những năm quân
ngũ ông đã bị tâm thần nhưng vẫn làm thơ vẽ tranh. Đoàn Việt Bắc từng được giải
B cuộc thi thơ của báo Văn Nghệ năm 1976. Hiện ông sống trong một căn nhà lụp
xụp tối tăm tại ngõ Văn Chương, Hà Nội. Ông vẫn tiếp tục làm thơ, vẽ tranh
trong nỗi đau tận cùng của kiếp người đó.
Trên đường từ toà soạn đến ngõ
Văn Chương, tôi cứ miên man trong suy nghĩ về những con phố, những ngõ nhỏ của
Hà Nội. Ở đó có biết bao số phận, bao kiếp người đang lặng lẽ, đang chìm khuất,
thậm chí đang bị lãng quên trong cái sự nhộn nhịp, xô bồ ở chốn đô thị. Và, đây
là lần thứ hai tôi đến con ngõ này. Lần trước, tôi đến đây để gặp một nhà văn
rất nổi tiếng. Đó là nhà văn Sơn Tùng. Tuy không bị lãng quên nhưng ông là
người sống ẩn mình. Lần này tôi tìm đến ngõ Văn Chương để gặp một con người
cũng khá đặc biệt. Một người đặc biệt theo hướng khác của những điều tốt đẹp.
Ông là một người điên. Một người điên đã bị cuộc đời quên lãng từ lâu. Và thật
trớ trêu thay, người điên đó lại là một thi sĩ. Một thi sĩ đã từng được đông
đảo bạn đọc biết đến, đã để lại dấu ấn tên tuổi của mình trên văn đàn vào những
năm 70. Người điên đó chính là nhà thơ Đoàn Việt Bắc.
Quả thực, trong suốt hơn mười năm
làm báo, chưa bao giờ tôi cảm thấy có chút hồi hộp khi đi gặp nhân vật để viết
bài như thế. Tại vì ông là một người điên chăng. Cũng có thể là như vậy. Nhưng
có lẽ, điều ám ảnh tôi lớn hơn cả lý do ấy, đó chính là những câu thơ của ông
mà tôi đã được đọc trong tập Lá trung quân, khi vô tình sắp xếp
lại tủ sách của mình. Những câu thơ Đoàn Việt Bắc viết khi mới là một anh lính
trẻ đang độ tuổi mười tám đôi mươi, và cả những câu thơ ông viết sau này trong
trạng thái tâm thần. Đó là những câu thơ hay và có sức ám ảnh người đọc ghê
gớm:
Để nhớ để quên anh đi vào chén rượu
Chén rượu hoá ngôi nhà mọc giữa mùa xuân
Xung quanh anh rơi đầy hoa quả chín
Đầy hạt thóc vàng rơi xuống dưới chân
Anh cúi nhặt ủ trái tim quả đất
Để cất rượu nồng đầy ắp hương xuân
Thấy đôi mắt và làn môi khô khát
Em hoá thành dĩ vãng ở trong anh
Chén rượu giao thừa anh uống mình anh
Rượu không uống buông tay rơi vỡ chén
Và đất trời bỗng bùng bùng lửa bén
Màu máu hồng loang đỏ cả mùa xuân
(Chén
rượu giao thừa)
Một nỗi cô đơn bị đẩy đến tận
cùng của người nghệ sĩ, trong khi đất trời và lòng người đang hân hoan ngập
tràn muôn nơi. Những câu thơ vừa mang hơi hướng cổ điển lại vừa mới lạ đến bất
ngờ. Cái cổ điển trong nhịp điệu và cái mới lạ trong hình ảnh hoà quện một cách
tự nhiên tạo thành lực hút ma mị đối với người đọc. Sở dĩ có được điều đó bởi
tâm thức của người nghệ sĩ đang bị rơi vào cái ranh giới giữa tỉnh và điên,
giữa tỉnh và say. Có lẽ phần nào thiên về phía điên và say nhiều hơn. Đó chỉ có
thể là những câu thơ của một người điên tài hoa. Và, tôi lại chợt nhớ đến một nhà
thơ lớn của văn học Việt Nam, đó chính là nhà thơ Hàn Mạc Tử. Khi cuộc đời đẩy
con người ta đến tận cùng của nỗi cô đơn, tận cùng của điều tuyệt vọng thì tố
chất tài năng trong người họ như bị vỡ tung ra. Khi đó nỗi cô đơn, tuyệt vọng
giống như một món quà của thượng đế đã ban tặng. Họ được nhận món quà đó trong
hân hoan của cảm xúc và trong đớn đau của kiếp người.
Khi cầm quyển thơ Lá
trung quân trên tay, ngay trang đầu tiên của cuốn sách đã gây ấn tượng
mạnh, bất thường đối với tôi bởi dòng chữ đề tặng: “Giê Su Xa Lem tặng nhà thơ…”. Và trong đầu tôi chợt nhớ lại những
hình ảnh của hơn hai mươi năm về trước. Khi đó Đoàn Việt Bắc có phần tỉnh táo
hơn bây giờ, lâu lâu ông lại đi bộ từ ngõ Văn Chương đến nhà tôi chơi. Bởi ông
và bố tôi là bạn văn chương với nhau, cùng nhận giải thưởng thơ báo Văn Nghệ
vào năm 1976. Năm đó Đoàn Việt Bắc nhận gải B với bài thơ Lá Trung Quân. Mỗi lần ông
đến chơi là mọi người trong nhà tôi đều có cảm giác hơi lo lắng, bởi những câu
chuyện của ông nó chứng tỏ tâm thần không bình thường. Nhưng trái lại, khi đọc
thơ, ông lại có trí nhớ rất tốt. Ông đọc thơ mọi người, đọc thơ của mình vanh
vách đầy truyền cảm. Trong những giây phút im lặng, ánh mắt của Đoàn Việt Bắc
làm cho ta cảm thấy thấy sợ. Đó là một ánh mắt gằn vện và hoang hoải, nó làm
cho người đối diện không dám nhìn thẳng vào ông. Thỉnh thoảng hai bàn tay ông
như đang cầm một vật gì đưa lên đưa xuống trước mặt, miệng lẩm bẩm giống như
đang nhẩm khấn các bậc thần linh vậy. Tôi cũng đã đôi ba lần tình cờ bắt gặp
ông đi lang thang trên phố, hai nắm tay để trước ngực, miệng đọc thơ hoặc nói
điều gì đó không ai hiểu được. Bẵng đi một thời gian khoảng hơn chục năm trở
lại đây, không ai còn thấy Đoàn Việt Bắc xuất hiện ở đâu nữa.
Để gặp được con người đặc biệt
này, tôi đã phải liên hệ qua ông Đoàn Đình Thứ, anh trai của Đoàn Việt Bắc. Nhà
ông Thứ cũng nằm trong ngõ Văn Chương, cách nhà Đoàn Việt Bắc chỉ mấy trăm mét.
Trước khi đến nhà em trai mình, ông Thứ đã dặn dò tôi rất cẩn thận, phải xưng
hô với Đoàn Việt Bắc là cụ hoặc “mét”, để tránh những sự cố bất thường có thể
xảy ra đối với một người bị bệnh tâm thần. Ông Thứ bảo, Đoàn Việt Bắc cho mình
là người phi thường và thuộc về quá khứ. Con người đó sống với nhiều kí ức. Có
những kí ức đau thương cứ ám ảnh ông ta cả lúc tỉnh và lúc điên.
Đi qua một cái chợ dài ồn ào và
nhếch nhác, chúng tôi rẽ vào con hẻm nhỏ, ông Thứ dừng xe chỉ về phía một cái
cổng sắt. Tôi ngước nhìn lên và hơi giật mình khi cái biển nhà số 4 đập vào mắt
tôi. Dẫu nó chẳng phải là con số định mệnh gì nhưng tôi vốn không thích con số
đó, dường như đó là điều mơ hồ khó giải thích. Ông Thứ lấy chùm chìa khoá để mở
cánh cổng sắt vàng ố, hoen gỉ. Tôi đứng bên ngoài cửa sổ nhìn vào căn phòng của
Đoàn Việt Bắc rồi chết lặng. Không biết có thể gọi đó là nhà được không. Một
căn phòng tối tăm, hôi hám, bẩn thỉu, ẩm mốc. Trong tôi lại vang lên những câu
thơ: “Chén rượu hoá ngôi nhà mọc giữa mùa
xuân/Xung quanh anh rơi đầy hoa quả chín/ Đầy thóc vàng rơi xuống dưới chân”.
Lòng tôi nghẹn lại, mắt cay xè. Thi nhân ơi. Trên thế gian này chẳng điều gì có
thể ngăn cản ngòi bút, ngăn cản “nỗi” thăng hoa cay cực của anh. Hãy cô đơn đi.
Hãy cứ hân hoan trong niềm đau đi. Để mà tứa máu nhỏ ra những giọt thơ mà cười
mà đau với thế gian này.
Ông Thứ bảo, Đoàn Việt Bắc không
cho ai dọn dẹp hay chạm vào bất cứ đồ vật nào của mình, rồi ông gọi to: “Cụ ơi, tôi đưa một mét nhà thơ đến thăm cụ
đây”. Từ trong bóng tối, một khuôn mặt vàng vọt ốm yếu bất ngờ ló ra:
- Chào mét, lại có mét nhà thơ đến thăm à.
- Vâng, cụ mặc quần áo vào rồi sang nhà tôi
trò chuyện với mét nhà thơ nhé.
Trong căn nhà của ông Thứ, tôi
nhìn kĩ thấy Đoàn Việt Bắc đã già và gầy hơn trước rất nhiều trong bộ quần áo
bộ đội, sơ vin ngay ngắn. Mái tóc bạc được chải chuốt khá cẩn thận. Ông Thứ
bảo: “Cụ Bắc bao giờ cũng vậy, luôn gọn
gàng chỉn chu trước mặt người khác”.
Đoàn Việt Bắc đã từng có những
năm tháng làm phóng viên báo Tuyên Quang. Rồi ông đi bộ đội, tham gia các chiến
trường Đông nam bộ, Capuchia và Tây Nguyên, thuộc Đoàn quân khu Việt Bắc, Đoàn
222. Sau này, do bị sức ép của bom nên Đoàn Việt Bắc trở thành người lúc điên
lúc tỉnh. Khi ở bộ đội ra, ông được điều trị tại một trại thương điên, dành cho
những người lính ở chiến trường về. Ông Đoàn Đình Thứ lên thăm đã không khỏi
đắng lòng khi thấy em mình bị nhốt trong một căn phòng bê tông khoảng 9m2 .
Vì thương em ông đã xin ở cùng và gợi lại những câu chuyện cũ. Ông Thứ đã nhận
ra rằng em mình không những chịu sức ép của bom mà còn bị sức ép về tinh thần
rất nặng. Đoàn Việt Bắc đã bị người ta vu cáo, đổ vấy những trách nhiệm do
người khác gây ra. Người ta đổ lỗi cho ông làm mất uy tín của quân đội và đem
ra kỉ luật. Đối với một anh lính trẻ thì những va chạm đầu đời này nặng nề khó
lòng vượt qua được, nên đã khiến Đoàn Việt Bắc uống thuốc tự tử, may không
chết. Sau đó ông Thứ đã xin bảo lãnh cho em trai mình được trở về với gia đình.
Có những lúc tưởng chừng như Đoàn Việt Bắc hoàn toàn khỏi bệnh. Ông thi đỗ vào
trường Đại học Mỹ thuật công nghiệp. Ra trường ông về công tác ở Xưởng phim
truyện Việt Nam.
Ông từng tham gia nhiều bộ phim có tiếng như: Cánh đồng Chum, hay bộ
phim Hồi
chuông màu da cam đoạt giải thưởng liên hoan phim Caclovy Vary tại Tiệp
Khắc vào những năm 80. Tranh của ông cũng được tham dự nhiều cuộc triển lãm
toàn quốc và giành giải thưởng. Đoàn Việt Bắc cũng từng có mái ấm hạnh phúc với
người vợ là hoạ sĩ, và họ có với nhau một cô con gái. Sau này chia tay, Đoàn
Việt Bắc sống một mình trong cô đơn, nghèo khó và bệnh tật. Trong nỗi cô đơn đó
ông làm bạn với thơ và làm bạn với hội hoạ. Đoàn Việt Bắc vẽ rất nhiều, tranh
của ông vứt đầy dưới gầm giường và xó nhà.
Đoàn Việt Bắc chỉ vào một bức
tranh mà ông mới vẽ:
- Cụ xem bức này có đẹp không. Cũng đẹp đấy chứ nhỉ. Gô Ganh vẽ đấy. Bà
này là Đoàn Thị Điểm này. Bà này là Tây Thi.
Đó là một bức tranh vẽ ba cô thôn
nữ đang ngồi bên suối khá đẹp. Tôi hỏi:
- Cụ ơi, thế còn bà này là ai?
- Bà này thì chưa nhớ ra. Nhưng đẹp đấy nhỉ
Đoàn Việt Bắc lại tiếp tục khoe
một loạt bức tranh khác.
- Văn Cao vẽ đấy. Đẹp nhỉ. Có vẽ một nghìn bức tranh cũng không bằng
hai chữ tình người cụ ạ.
Trong số những bức tranh mới vẽ
của Đoàn Việt Bắc, đang để nhà ông Thứ, tôi thấy có một bức đề tặng nhà văn Ma
Văn Kháng nhân dịp ông nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh. Ông Thứ bảo Nhà văn Ma Văn
Kháng với gia đình ông là chỗ thân tình, rất quý trọng tài năng của Đoàn Việt
Bắc.
Tôi chợt nhận ra một điều, tất cả
những bức tranh của Đoàn Việt Bắc vẽ đều cùng một chủ đề về miền núi. Có lẽ
những năm tháng làm việc ở báo Tuyên Quang, và những năm tháng đi bộ đội đã ăn
sâu vào trong tiềm thức của ông. Ông Thứ kể, cách đây mấy năm Đoàn Việt Bắc bỏ
nhà đi lang thang đến mấy tuần, gia đình đã đăng tin, đi tìm khắp nơi mà không
được. Trong những phút giây tuyệt vọng, ai cũng nghĩ Đoàn Việt Bắc đã chết. Cứ
nghe, chỗ này chỗ kia có người vô gia cư chết là lại nhao đến để xem có phải
người nhà mình không. Rồi một hôm, ông Thứ nhận được cuộc điện thoại từ một
người lái xe đường dài xa lạ, thông báo rằng anh ta vừa thả Đoàn Việt Bắc ở bến
xe Kim Mã. Mọi người vội vã bủa ra bến xe để tìm thì thấy Đoàn Việt Bắc đang lọ
mọ tìm đường về nhà. Thì ra, trước đây ông Thứ đã rất cẩn thận, ghi lại mọi
thông tin về gia đình và tình trạng sức khoẻ của Đoàn Việt Bắc vào một mẩu giấy
rồi ghim trong túi áo. Sau này lúc tỉnh táo, Đoàn Việt Bắc kể lại, tự nhiên
thấy nhớ mảnh đất Tuyên Quang, nơi ông đã từng công tác trước đây nên đã bắt xe
lên đó để tìm lại dấu vết kỉ niệm xưa. Nhưng Đoàn Việt Bắc đã không còn nhận ra
chút gì nữa. Khi trong người không còn đồng nào, ông đã phải xin ăn, rồi ngủ vạ
vật ngoài đường ngoài chợ. May sao ông vẫn còn tỉnh táo để bắt xe về Hà Nội.
Lúc nhà xe hỏi tiền thì ông nói không có, suýt nữa bị người ta đánh. Đến khi mọi
người lục trong người thấy mảnh giấy ghi những thông tin như thế nên đã cho ông
ngồi xe và đưa về đến Hà Nội.
Trong tập thơ Lá
trung quân, mảng đề tài viết về nông thôn miền núi cũng chiếm một phần
đáng kể. Có nhiều câu thơ khiến ta ngỡ ngàng:
Đêm dẫn quân đi, hoa thơm trên tóc em
Hương ngào ngạt thay ngọn đèn tín hiệu,
Cứ theo mùi hương mà đi đánh giặc,
Hương chiến trường thành nỗi nhớ riêng anh
(Hoa Sala)
Hay trong bài Mùa
thu ơi chớ ngủ quên, Đoàn Việt Bắc đã viết về mùa thu bằng một bút pháp
khá mới mẻ:
Em im lặng nằm trong bóng lá
Làn mi cong thân thể trắng ngần,
Đôi môi đỏ, má màu hồng ngọc
Mùa thu ơi, chớ ngủ quên!
Ông cầm chén trà nâng lên chạm
chén với tôi, rồi nói:
-
Chúc tài đức,
toàn dân vũ trụ.
-
Cụ ơi, lâu nay cụ
có làm thơ nữa không?
-
Thơ hả, cụ lấy
giấy bút chép đi
Ánh mắt đờ đẫn của ông nhắm
nghiền lại, rồi bắt đầu chậm rãi đọc.
Bằng lăng hoa tím thiêng
Người đẹp hay hương hoa ngày ấy
Người đẹp gặp ở trong rừng
Trăng trong hoa tím cỏ mùa xuân
-
Bài này cụ viết
lâu chưa
-
Cụ bảo tôi làm
thơ thì tôi làm luôn đấy thôi.
Vâng, một bài thơ ông làm ngay
tại chỗ vẫn là những ám ảnh của núi rừng. Ông lại cầm chén trà và nói “Chúc tài đức, toàn dân vũ trụ. Phải đi miền
núi mới có cảm xúc. Ngồi nhà trong bốn bức tường xi măng khó viết lắm”. Có
lúc cao hứng ông đứng dậy nói oang oang: “Đoàn
Việt Bắc đọc thơ cho toàn dân vũ trụ nghe. Người đầu tiên của vũ trụ, từ trên
trời rơi xuống qủa đất” Xong, ông ngồi xuống im lặng, rồi quay sang nói với
anh trai mình: “Cụ cho xin cái áo may ô
và cái khăn mùi xoa nhé”
Cứ như thế câu chuyện của chúng
tôi xen kẽ bởi những lời dở tỉnh dở điên của Đoàn Việt Bắc.
Cách đây khoảng 7 năm có một cô
gái trẻ làm công nhân xây dựng đã đem lòng thương ông rồi về ở với ông, nhưng được
một thời gian ngắn cô bị bệnh mà chết. Trong đám tang vợ, Đoàn Việt Bắc đã gào
lên thảm thiết: “Trả lại vợ cho tôi. Sao
các người lại đem giấu vợ tôi xuống dưới đất thế kia”. Tiếng gào thét của
một người đàn ông tâm thần xé nát tâm can những người dự đám tang hôm đó. Đoàn
Việt Bắc lại tiếp tục sống cuộc đời hiu quanh, cô đơn đến cùng cực.
Mỗi ngày hai ba bận, ông Thứ lại
mang cơm sang cho em mà đau thắt lòng. Đã có lúc ông Thứ quyết định sang ở cùng
với em trai nhưng Đoàn Việt Bắc không cho. Cũng có lần trong cơn điên, Đoàn
Việt Bắc cầm dao đâm vào sau lưng anh trai mình và nói rằng: “Mày là thằng Mỹ, mày đến đây để cướp tiền
của tao”. Giọng run run, ông Thứ bảo, cách đây mấy năm, khi mẹ ông còn sống,
cụ vẫn hàng ngày đem cơm sang cho con. Có những lúc Đoàn Việt Bắc lên cơn điên
đánh cả mẹ mình. Trước khi nhắm mắt xuôi tay, điều làm cụ không yên lòng đó là
đứa con trai tội nghiệp của mình. Cụ bảo, khi cụ chết đi rồi ai sẽ lo cho Đoàn
Việt Bắc đây. Trong suốt mấy năm qua, ông Thứ vất vả để xin chế độ lương hưu
cho em trai, và dẫu đang ở cái tuổi 75 nhưng ông vẫn đang tiếp tục đi làm chế
độ thương binh cho em mình. Ông bảo, dẫu tiền bạc chẳng đáng là bao nhưng Đoàn
Việt Bắc xứng đáng được hưởng những chế độ đó.
Tôi và ông Thứ lặng im nhìn Đoàn
Việt Bắc đang cười nói một mình khi ngắm những bức tranh của mình: “Đẹp quá. Thiếu nữ đi hái hoa rừng đấy. Bộ
đội đáng yêu quá, trông như là mùa xuân ”. Rồi bỗng nhiên ông tỏ ra giận dữ
hét to: “Vu cáo. Chúng nó vu cáo. Bộ đội
mà hủ hoá thế à”. Ông Thứ lại nhẹ nhàng xoa dịu em mình bằng những câu nói
như nựng trẻ con. Tôi hiểu rằng đó là nỗi đau tinh thần đã ám ảnh Đoàn Việt Bắc
suốt mấy chục năm qua. Tôi cũng tìm cách xoa dịu cơn giận dữ của Đoàn Việt Bắc
bằng cách đọc mấy câu thơ của chính ông:
Sinh nhật mình năm nay lạ lắm
Năm trăm rau muống luộc nhai suông
Em không còn thuở tết tóc đuôi sam
Đuổi bươm bướm và hái hoa cúc dại
- Cụ ơi, cụ có nhớ
thơ của ai không?
-
Có chứ, thơ của
Văn Cao đấy, không của Nguyễn Du đấy.
Chia tay với Đoàn Việt Bắc và ông
Đoàn Đình Thứ, tôi lại đi ngược trở ra con ngõ Văn Chương. Buổi chợ sáng đã vãn
người, các bà các chị đang chuẩn bị thúng mủng ra về. Ở cái ngõ chợ này có ai
mà không biết một ông tâm thần vẫn thường hay đi qua đây nhưng mấy người biết
được đó là một nhà thơ. Một nhà thơ tài hoa. Một nhà thơ điên loạn. Một nhà thơ
chịu nhiều thiệt thòi từ kiếp người. Một nhà thơ yếu đuối đang bị lãng quên
trong cõi nhân gian này.
T.V.L
T.V.L
*Tác giả gửi trực tiếp cho T-Blog.
Sao lại có những số phận cay đắng làm sao. Bài viết rất cảm động.
Trả lờiXóaNHÂN CÁCH
Trả lờiXóaViết tặng tác giả Trần Vũ Long sau khi đọc 2 bài „chân dung“ của anh.
Thân mến.
Dựng lại chân dung
những con người
một thời
gian truân
và
nhân ái
Cũng vì
kiếp sống
này chăng?
Cảm ơn nhà văn
cùng
trăn trở
về
NHÂN CÁCH.
"Trong tôi lại vang lên những câu thơ: “Chén rượu hoá ngôi nhà mọc giữa mùa xuân/Xung quanh anh rơi đầy hoa quả chín/ Đầy thóc vàng rơi xuống dưới chân”. Lòng tôi nghẹn lại, mắt cay xè. Thi nhân ơi. Trên thế gian này chẳng điều gì có thể ngăn cản ngòi bút, ngăn cản “nỗi” thăng hoa cay cực của anh. Hãy cô đơn đi. Hãy cứ hân hoan trong niềm đau đi. Để mà tứa máu nhỏ ra những giọt thơ mà cười mà đau với thế gian này."
Trả lờiXóaRất cảm động, cảm ơn tác giả.
Tôi đã đọc bài này rồi, đọc lại vẫn thấy rưng rưng vì một số phận quá éo le, và tấm lòng của tác giả.
Trả lờiXóaBuồn cho một số phận thi nhân, một tài hoa bị dập vùi bởi những trận cuồng phong cõi nhân sinh!
Trả lờiXóaXót thương thay cho thân phận Thi nhân tài hoa nhưng bạc phận! Oan giận thay cái thời mà căn bệnh ấu trĩ, giáo điều cùng những "con" được gọi là "người" lại nắm trong tay sinh mạng chính trị của nhiều người khác. Những toan tính ích kỷ nhân danh "đạo đức cách mạng", sự "nhiệt tình cộng ngu dốt" của họ với cái "mũ chụp- hủ hóa" đã "cách" đi sinh "mạng" chính trị và sự nghiệp của những người tài hoa và nhân cách như nhà thơ Đoàn Việt Bắc. Khâm phục nhân cách của tác giả- nhà văn Trần Vũ Long. Chân thành cảm ơn tác giả và ông Đoàn Đình Thứ cùng Tễu- blog đã chia xẻ với độc giả nỗi xót thương và sự cảm thông chân thành về nhà thơ tài hoa nhưng bạc phận Đoàn Việt Bắc.
Trả lờiXóa