| 1. Quá trình phát hiện và     công bố văn bản: 
 Ngày  31 tháng 3 năm 2009, dòng họ Đặng ở huyện     đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng  Ngãi thông tin tới TS Nguyễn Đăng Vũ – Phó Giám đốc     Sở VH-TT &  DL tỉnh Quảng Ngãi về việc gia tộc đang lưu giữ những văn     bản chữ  Nho mà chưa rõ nội dung, rất có thể là những tài liệu có liên quan      đến việc đi Hoàng Sa của tổ tiên. Ngày 1 tháng 4, TS. Nguyễn Đăng Vũ đã  ra     đảo Lý Sơn và tiếp cận với văn bản. Ngay sau đó TS. Nguyễn Đăng  Vũ đã cung     cấp thông tin cho báo chí. Liên tiếp những ngày sau đó  các báo chí đã đưa     tin và được dư luận quan tâm đặc biệt.
 Nhận  thấy đây là một văn bản quý giá, góp phần     chứng minh và đấu tranh  đòi lại quần đảo Hoàng Sa đang bị phía Trung Quốc     chiếm đóng trái  phép, được TS Nguyễn Đăng Vũ thuyết phục, gia tộc họ Đặng     đã bàn bạc  thống nhất hiến tặng văn bản này cho nhà nước.
 Sáng  ngày 9 tháng 4 năm 2009, tại thôn Đồng Hộ,     xã An Hải, huyện đảo Lý  Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, tộc họ Đặng đã tổ chức một     ngày giỗ đặc biệt.  Con cháu trong họ từ khắp nơi trở về tề tựu đông đủ tại     nhà thờ tổ  để chứng kiến việc dâng hiến báu vật của dòng họ mình cho Nhà nước.      TS. Nguyễn Đăng Vũ đại diện cho Sở VH-TT và Du lịch Quảng Ngãi tiếp nhận      văn bản. Ngày 10 tháng 4, báo Thanh Niên công bố toàn văn bản dịch  văn bản     Lý Sơn của TS. Nguyễn Xuân Diện (người có mặt tại đảo Lý  Sơn, trong lễ bàn     giao hiến tặng tờ lệnh) và Thạc sĩ Nguyễn Đức  Toàn.
 Ngày  10 tháng 4, tại UBND tỉnh Quảng Ngãi, trước     sự chứng kiến của đại  diện gia tộc họ Đặng, lãnh đạo tỉnh Quảng Ngãi đã     trao cho đại diện  Ban Biên giới của Bộ Ngoại giao Việt Nam văn bản gốc của     tờ lệnh.  Hiện tại (tháng 12/2009) văn bản gốc tờ lệnh được lưu trữ tại Bộ      Ngoại giao Việt Nam.
  2. Bản phiên âm và dịch nghĩa tài liệu Lý     Sơn:Phiên âm:Ngãi  tỉnh Bố - Án     quan vi bằng cấp sự. Chiếu đắc nguyệt tiền tiếp Binh  bộ tư tự, phụng sắc Bộ     hành tư, tiên hành dự bát chinh thuyền tam  tao, tu bổ kiên cố, sĩ tại kinh.     Phái viên cập thủy quân biền binh  tiền vãng hiệp đồng sử thám Hoàng Sa xứ     đẳng. Nhân khâm thử kỳ cố  bát tại tỉnh chi khinh khoái thuyền tam tao tịnh     tùy thuyền vật kiện  các hành tu bổ. Tái xuất khứ niên sở phái chi Võ Văn     Hùng cập tăng  giản diên hải dân phu am thục hải trình giả, sung thuyền công     thủy  thủ. Tiền hậu vụ yếu mỗi tao bát danh, cai nhị thập tứ danh, vụ ư tam      nguyệt hạ tuần thừa thuận sử phóng đẳng. Nhân tư biện lý các dĩ thanh  thỏa,     phái viên hiện dĩ thừa lê thuyền sử đáo. Tư cứ Võ Văn Hùng lân  trạch thiện     thủy dân Đặng Văm Siểm đẳng khả kham đà công sự đẳng.  Nhân hiệp hành bằng     cấp nghi thừa thuyền nhất tao suất nội thuyền  thủy thủ đẳng danh tòng phái     viên biền binh tịnh Võ Văn Hùng đồng  vãng Hoàng Sa xứ phụng hành công vụ.  Giá  hải trình     quan yếu, tu nghi thực lực thừa hành, vụ đắc thập phần ổn  thỏa, nhược sơ     hốt tất can trọng tội. Sở hữu can danh, khai liệt vu  hậu, tu chí bằng cấp     giả.
 Hữu bằng cấp.
 Bình Sơn     huyện, An Hải phường, đà công Đặng Văn Siểm, Hoa Diêm thôn Dương Văn Định     cứ thử.
             Thủy thủ:
 Danh Đề,     Phạm Vị Thanh - An Vĩnh phường
 Danh Sơ,     Trần Văn Kham - An Vĩnh phường
 Danh Lê,     Trần Văn Lê - Bàn An ấp. Do Kim thương đội, nhị danh.
 Vũ Văn Nội
 Danh     Trâm, Ao Văn , Trâm – Lệ Thủy Đông nhị danh
 Danh     Xuyên, Nguyễn Văn Mạnh - An Hải phường
 Danh     Doanh, Nguyễn Văn Doanh, Mộ Hoa huyện, An Thạch, Thạch Than thôn
 Trương     Văn Tài
 Minh Mệnh ngũ thập niên, Tứ nguyệt, Thập ngũ     nhật.
 Dịch nghĩa:
 Quan  Án sát và Bố     chánh tỉnh (Quảng) Ngãi làm việc cấp bằng này. Chiếu  theo tháng trước tiếp     được công văn của bộ Binh, vâng sắc (triều  đình) cho bộ ấy trước là phải     thi hành việc tuyển chọn, trưng tập 3  thuyền, sửa sang bền chắc, đợi sẵn ở     kinh. Các phái viên và lính  thủy đi trước để cùng thám sát các vùng của xứ     Hoàng Sa. Nhân kính  theo đó mà xem xét và tuyển chọn trong tỉnh 3 thuyền     tốt, cùng với  đó là các vật dụng được tu bổ vững chắc, lại chọn ra tên Võ     Văn Hùng  – đã được cử đi từ năm trước và chọn thêm những dân phu ven biển      thạo đường biển để sung làm thủy thủ trên thuyền. Cốt yếu là phải chọn  mỗi     thuyền 8 tên, tổng cộng là 24 tên, cứ đến hạ tuần tháng Ba thì  thuận theo     thời tiết mà đi.
 Nay,  nhân các việc     đã xong xuôi, các phái viên đã đi lê thuyền đến; chọn  thủy thủ giỏi mà Võ     Văn Hùng đã tuyển chọn là bọn Đặng Văn Siểm có  thể đảm nhận công việc lái     thuyền. Nhân đấy mà cấp cho bằng này để  đi một thuyền dẫn các thủy thủ trên     thuyền theo quân của phái viên  và Võ Văn Hùng cùng đến Hoàng Sa thi hành     việc công.
 Đường  biển ấy     là nơi quan yếu, phải dốc sức mà thừa hành để cho công việc  được mười phần     trọn vẹn. Nếu bất cẩn, sẽ phạm trọng tội.
 Các người có     trách nhiệm kê ở dưới đây. Vậy nên có bằng cấp này.
 Trở lên là     bằng cấp.
 Đà công Đặng     Văn Siểm người phường An Hải huyện Bình Sơn và Dương Văn Định, người thôn     Hoa Diêm theo đây mà thi hành.
             Kê:
 Thủy thủ:Tên Đề - Phạm Vị Thanh, An Vĩnh phường;
 Tên Sơ - Trần Văn Kham, An Vĩnh phường;
 Tên Lê - Trần Văn Lê, Bàn An ấp; thuộc đội súng ống, 2 tên.
 Vũ Văn Nội,
 Tên Trâm - Ao Văn Trâm, Lệ Thủy Đông hai tên
 Tên Xuyên - Nguyễn Văn Mạnh, An Hải phường
 Tên Doanh - Nguyễn Văn Doanh, Mộ Hoa huyện, An Thạch, Thạch Than thôn
 Trương Văn Tài
 Minh Mệnh năm thứ 15 (1834), tháng Tư, ngày 15.
 (Bản dịch của Nguyễn Xuân     Diện và Nguyễn Đức Toàn)   3.     Khảo cứu văn bản: 3.1.  Kích thước tờ lệnh: 24     x 36 cm. Trên văn bản Lý Sơn có rất nhiều  dấu ấn. Ngoài dấu ấn to của Quan     Bố Chánh sứ Quảng Ngãi, còn có các  dấu ấn nhỏ, dùng để đóng vào nơi ghi tên     người và những chữ cần đặc  biệt lưu ý đối với người tiếp nhận văn bản. Ở     đây là dấu ấn mang các  chữ: Quảng Ngãi Án sát, theo lối chữ triện.
  
 Dấu ấn này gọi là     kiềm ấn, hình vuông, mỗi cạnh 2.5 x 2.5 cm, làm bằng ngà voi. Hai dấu ấn: Quảng Ngãi Bố chánh     sứ ty chi ấn (đóng từ con ấn đồng, vuông, mỗi chiều 7,5 cm) và Quảng     Ngãi Án sát cùng đi với nhau, cùng có mặt trên văn bản này. Vì sao vậy? Đó  là vì ở các     tỉnh, khi mà Tổng đốc, Tuần phủ đi vắng, hoặc tỉnh vẫn  khuyết chân Tuần     phủ, nếu có việc cơ mật quan Bố Chánh phải họp với  Quan Án sát sứ.  Chúng  ta biết     rằng, tỉnh Quảng Ngãi được chính thức thành lập (là đơn vị  cấp tỉnh) vào     năm 1832 (năm Minh Mạng thứ 13). Theo Đại Nam thực lục của Quốc sử     quán triều Nguyễn, và cả những ghi chép trong Hải Nam tạp trứ  của     Thái Đình Lan - một nho sinh Đài Loan bị gió bão đánh trôi giạt  vào bờ biển     tỉnh Quảng Ngãi vào thời điểm này - lúc bấy giờ tỉnh  Quảng Ngãi chưa có     quan Tuần phủ riêng, tiến sĩ Phan Thanh Giản là  người kiêm chức Tuần     phủ Nam - Ngãi (cả Quảng Nam lẫn Quảng Ngãi,  nhưng chỉ đóng dinh thự ở     Quảng Nam). Hai vị quan trực tiếp xử lý  toàn bộ công việc chính trị, hành     chính, chính sự, quân sự...tại  Quảng Ngãi là Bố chánh (mà lúc đó Ty Bố     chánh gọi là Ty Phiên) và Án  sát (Ty Án sát gọi là Ty Niết). Hai ty Phiên     và Niết đều đặt tại  tỉnh thành Quảng Ngãi.  Bố  chánh Quảng     Ngãi 1834 là Lê Nguyên Trung, rồi sau đó là Trương Văn  Uyển, 1835 là Tôn     Thất Bạch; Án sát Quảng Ngãi 1834 là Nguyễn Đức  Hội và 1835 là Đặng Kim     Giám. Khi cần ban một quyết định cơ mật, thì  cả quan Bố chánh và Án sát cần     phải hiệp y. Vì thế, trên văn bản cổ  này có đóng dấu của cả quan Án sát và     quan Bố chánh. Và cũng chính  từ 2 con dấu đỏ đóng trên văn bản này chúng ta     cũng có thể suy luận  thêm, việc cử các ông Võ Văn Hùng, Đặng Văn Siểm, và     nhiều người  khác (có ghi trong văn bản) đi Hoàng Sa còn là một việc hết sức     quan  trọng và cơ mật. Ngoài ra, trên văn     bản Lý Sơn còn có đóng 1 con dấu nữa, mang hai chữ Quảng Ngãi. 3.2.     Về các nhân danh và địa danh trong văn bản. Những  gì còn lưu     lại tại gia tộc họ Võ làng An Vĩnh huyện Lý Sơn, cho  phép ta khẳng định:     Ông Võ Văn Hùng là người thuộc gia tộc họ Võ  (Văn) tại làng An Vĩnh, một     dòng họ có nhiều người đi Hoàng Sa trong  nhiều thế kỷ. Cai cơ thủ ngự quản     đội Hoàng Sa Phú Nhuận hầu Võ Văn  Phú là một ví dụ điển hình. Bên cạnh ông     Võ Văn Hùng, trong văn bản  cổ có ghi những người phải thi hành nhiệm vụ     (khác): đó là Đặng Văn  Siểm (làm đà công, tức lái thuyền), Dương Văn Định,     và các thủy  thủy cùng đi, gồm: Phạm Vị Thanh, Ao Văn Trâm, Trần Văn Kham,     Nguyễn  Văn Mạnh, Trần Văn Lê, Nguyễn Văn Dinh, Võ Văn Công, Trương Văn Tài.       Trong  đó có 4     người ở đảo Lý Sơn, mà lúc đó là chỉ là xã Lý Sơn, với hai  phường là An     Vĩnh và An Hải, thuộc tổng Bình Hà, huyện Bình Sơn. Hai  người không ghi quê     quán là Võ Văn Công và Trương Văn Tài, nhưng có  lẽ họ cũng là người của Lý     Sơn. Ông Võ Văn Công có thể là người  dòng họ Võ (Văn) ở An Vĩnh. Ông Trương     Văn Tài có thể thuộc dòng họ  Trương ở An Hải – một trong lục tộc tiền hiền     của làng này. Sở dĩ ta  có thể suy đoán ra điều đó, vì những dân binh này     đều do chính ông  Võ Văn Hùng tuyển chọn. Nếu đúng như vậy, thì trong số 11     người có  tên trong văn bản cổ của dòng họ Đặng, 7 người là người của huyện      đảo Lý Sơn. Ngoài  ra, văn bản     cổ này còn ghi những người thuộc các huyện khác trong  tỉnh Quảng Ngãi. Ông     Ao Văn Trâm được ghi là ở Lệ Thủy Đông Nhị, mà  Lệ Thủy Đông Nhị vốn là một     xã cũng thuộc tổng Bình Hà, huyện Bình  Sơn (có thể tương đương với xã Bình     Trị hiện nay, tức là nơi có Nhà  máy lọc dầu Dung Quất). Theo Đồng Khánh địa     dư chí, địa danh Lệ Thủy Đông Nhị (xã) còn tồn tại đến thời vua Đồng     Khánh (1885 – 1888).  Ông  Trần Văn Lê     được ghi là ở Bàn An ấp, thuộc thôn Thạch Than, tổng Ca  Đức, huyện Mộ Hoa     (bao gồm huyện Mộ Đức và Đức Phổ hiện nay). Bàn  An là tên một thôn thuộc xã     Phổ Quang, huyện Đức Phổ ngày nay. Ông  Nguyễn Văn Dinh (Doanh) được ghi là     ở thôn Thạch Than, xã An Thạch.  Đối chiếu với các sử liệu cũ, thôn Thạch     Than, xã An Thạch cũng  thuộc tổng Ca Đức, huyện Mộ Hoa (nay tên gọi Thạch     Than chỉ dùng để  chỉ một thôn thuộc xã Đức Phong, huyện Mộ Đức). Như vậy     hai ông Trần  Văn Lê và Nguyễn Văn Dinh cùng ở thôn Thạch Than, xã An Thạch,     tổng  Ca Đức, huyện Mộ Hoa.  Về  hai ông Dương     Văn Định và Đặng Văn Siểm, họ là những người được  quan Bố chánh và Án sát     trực tiếp chỉ định “cứ thử”, tức phải vâng  mệnh thi hành. Như đã nói ở     trên, ông Đặng Văn Siểm được xác định rõ  là người phường An Vĩnh (Lý Sơn).     Riêng ông Dương Văn Định, hiện  vẫn chưa xác định được ở làng quê nào hiện nay.     Văn bản cổ chỉ ghi  là ông Dương Văn Định ở thôn Hoa Diêm (không ghi rõ xã,     tổng,  huyện).  Nhưng  thôn Hoa     Diêm thời ấy nay thuộc địa phương nào? Hiện nay, các thôn  trong tỉnh Quảng     Ngãi có chữ Diêm (muối, tức làng làm ruộng muối),  gồm: Tân Diêm (thuộc xã     Phổ Thạnh, huyện Đức Phổ), thôn Tuyết Diêm  (thuộc xã Bình Thuận, huyện Bình     Sơn), thôn Diêm Điền (thuộc xã Bình  Châu, huyện Bình Sơn)…Vì húy kỵ tên mẹ     vua Thiệu Trị nên vào năm  1841 (năm Thiệu Trị thứ nhất), tất cả những tên     người lẫn địa danh  có chữ Hoa đều phải thay đổi, như Thanh Hoa, đổi thành     Thanh Hóa,  Đông Hoa thành Đông Ba, Mộ Hoa thành Mộ Đức… Hoa  Diêm chắc chắn     cũng phải đổi, nhưng trong 3 địa danh có chữ Diêm  như nói ở trên thì thôn     nào vốn là thôn Hoa Diêm? Theo chúng tôi, có  lẽ thôn Hoa Diêm của ông Dương     Văn Định chính là thôn Tuyết Diêm,  thuộc xã Bình Thuận huyện Bình Sơn hiện     nay, tức là nơi có bến cảng  Dung Quất bây giờ. Vì rằng, thời ấy Lý Sơn     thuộc tổng Bình Hà, huyện  Bình Sơn.  Các  dân binh được     tuyển chọn, ngoài hai ông Trần Văn Lê và Nguyễn Văn  Dinh là người thuộc     tổng Ca Đức, huyện Mộ Hoa, những người còn lại  đều thuộc tổng Bình Hà,     huyện Bình Sơn. Các thôn Diêm Điền, Tân Diêm  đều thuộc các tổng khác (riêng     Tân Diêm, nay thuộc Đức Phổ, thì với  khoảng cách địa lý khá xa ấy càng không     hợp lý).  3.3. Sự trùng khớp     với chính sử và châu bản triều Nguyễn:Lần theo chính     sử, ta thấy có một số sự kiện lịch sử liên quan đến nội dung của văn bản cổ     này. Sách Đại Nam     thực lục,  chính biên, đệ nhị kỷ, quyển 122 của Quốc sử quán triều     Nguyễn ghi  chép về những sự kiện lịch sử vào tháng 3 năm Minh Mạng thứ 15      (1834), có ghi: “Đội trưởng Trương Phúc Sĩ cùng thủy quân hơn 20 người  đi     thuyền đến đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Ngãi vẽ bản đồ” (Nxb  Giáo dục, H.     2004, tập 4, tr.120).
 Sách  này cũng     cho biết, chính năm 1834 vua Minh Mạng đã sai binh lính đi  dựng miếu và lập     bia ở Hoàng Sa, nhưng vì sóng to gió lớn không làm  được, nên vào tháng 6     năm Minh Mạng thứ 16 (1835), sai Cai đội Thủy  quân Phạm Văn Nguyên đem thợ     Giám thành cùng phu thuyền hai tỉnh  Quảng Ngãi, Bình Định chuyên chở vật     liệu đến dựng miếu, dựng bia đá  đảo Hoàng Sa (tr. 673).
 Sách  này còn     cho biết thêm, vào tháng giêng năm Minh Mạng thứ 17 (1836),  Bộ Công tâu     rằng: “Cương giới mặt biển nước ta có xứ Hoàng Sa rất  là hiểm yếu, đã phái     vẽ bản đồ mà hình thế nó xa rộng, mới chỉ được  một  nơi… Hàng năm nên     phái người đi dò xét cho khắp để thuộc đường  biển. Xin từ năm nay (1834)     trở về sau, mỗi khi đến hạ tuần tháng  giêng chọn phái biền binh thủy quân     và vệ giám thành đáp 1 chiếc  thuyền ô, nhằm thượng tuần tháng hai thì đến     Quảng Ngãi, bắt 2 tỉnh  Quảng Ngãi, Bình Định thuê 4 chiếc thuyền của dân,     hướng dẫn ra đúng  xứ Hoàng Sa.
 Không  cứ là đảo     nào, hòn nào, bãi cát nào, khi thuyền đi đến cũng xét xem  xứ ấy chiều dài,     chiều ngang, chiều cao, chiều rộng, chu vi và nước  biển bốn bên xung quanh     nông hay sâu, có bãi ngầm, đá ngầm hay  không, hình thế hiểm trở, bình dị     thế nào, phải tường tất đo đạc, vẽ  thành bản đồ. Lại, xét ngày khởi hành,     từ cửa biển nào ra khơi,  nhằm phương hướng nào đi đến xứ ấy, căn cứ vào     thuyền đi, tính ước  được bao nhiêu dặm. Lại từ xứ ấy trông vào bờ bến, đối     thẳng vào là  tỉnh hạt nào, phương hướng nào, đối chênh chếch là tỉnh hạt     nào,  phương hướng nào, cách bờ biển chừng bao nhiêu dặm. Nhất nhất nói cho      rõ, đem về dâng trình” (tr.867).
 Chuẩn  theo lời     tấu của Bộ Công, vua Minh Mạng sai Suất đội Thủy quân Phạm  Hữu Nhật đem     binh thuyền cùng 10 bài gỗ, mỗi bài gỗ dài 5 thước,  rộng 5 tấc, dày 1 tấc,     mặt khắc chữ: “Minh Mạng thập thất niên, Bính  Thân, Thủy quân Chánh đội     trưởng Suất đội Phạm Hữu Nhật phụng mệnh  vãng Hoàng Sa tương độ chí thử lưu     đẳng tự” (Năm Minh Mạng thứ 17,  năm Bính Thân (1836), Thủy quân Chánh đội     trưởng Suất đội Phạm Hữu  Nhật vâng mệnh đi Hoàng Sa xem xét, đo đạc đến đây     lưu dấu để ghi  nhớ).  Đây là sự kiện mà hầu hết các bộ chính sử của     triều Nguyễn,  như Đại Nam     thực lục, Quốc triều chính biên toát yếu… đều  có ghi chép.
 Ngoài những     trang ghi chép về sự kiện đi Hoàng Sa vào các năm 1834, 1835, 1836, sách Đại     Nam thực lục,  đệ nhị kỷ, quyển 204, còn ghi chép thêm rằng, phái viên     Hoàng Sa là  Suất đội Thủy sư Phạm Văn Biện cùng thủy quân, binh phu đi     Hoàng Sa  bị gió bão đánh tan nát nên đến tháng 7 năm Minh Mạng thứ 20     (1839)  mới “lục tục” về đến kinh thành. Hỏi vì sao, đoàn thuyền đi Hoàng Sa      lần này cho biết, họ đã nhờ thủy thần cứu giúp. Vua Minh Mạng sai Bộ  Lễ     chọn địa điểm ở cửa biển Thuận An đặt đàn cúng tế tam sinh nhằm  cảm tạ thủy     thần, rồi thưởng tiền cho Phạm Văn Biện, các biền binh  và dân phu đi theo     (Tập 5, tr. 532).
 Chỉ  căn cứ theo     các đoạn ghi chép nêu trên cũng đã thấy nội dung văn  bản cổ của dòng họ     Đặng là hoàn toàn trùng khớp với chính sử.
 Nội  dung trùng     khớp thứ nhất, đó là về thời gian: Hằng năm cứ vào hạ  tuần tháng giêng là     các phái viên, biền binh xuất quân ở kinh   thành, để đến thượng tuần     tháng 2 là đến Quảng Ngãi và đến hạ tuần  tháng 3 là đi Hoàng Sa.
 Thứ hai, là về     số lượng binh thuyền, Đại Nam thực lục  ghi: Ngoài số binh thuyền ở     kinh thành phái vào, ở Quảng Ngãi (lẫn  Bình Định) còn chuẩn bị thêm 3- 4     chiếc thuyền nhẹ của dân địa  phương (mà ở đây văn bản cổ họ Đặng cho biết     tỉnh Quảng Ngãi năm  1834 đã chuẩn bị 4 thuyền, trong đó có 1 thuyền dành     riêng cho ông  Võ Văn Hùng đi với 8 thủy thủ ở tỉnh Quảng Ngãi như chúng tôi     đã nêu  tên ở trước). Do vậy, có thể suy ra, chuyến công vụ Hoàng Sa theo văn      bản cổ của dòng họ Đặng có tất cả 7 thuyền, chứ không phải chỉ có 3  thuyền     như trước đây một vài người đã suy đoán.
 Nội  dung văn     bản cổ của dòng họ Đặng còn trùng khớp với nhiều nguồn tài  liệu, thư tịch     bằng chữ Hán của các sử gia, quan lại ở những triều  vua khác nhau, đặc biệt     là những tài liệu, thư tịch có ghi chép khá  kỹ lưỡng về hoạt động của đội     Hoàng Sa – Trường Sa cũng như việc  thực thi chủ quyền của Việt Nam tại hai     quần đảo này.
 Trước hết đó là     những ghi chép của Nội các triều Nguyễn trong Khâm định Đại Nam hội điển     sự lệ, những ghi chép của Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương     loại chí và Hoàng Việt địa dư chí, những ghi chép của Nguyễn     Thông trong Việt sử cương giám khảo lược…  Sở dĩ ta xem văn bản cổ     của dòng họ Đặng có sự trùng khớp về nội  dung so với các tài liệu này, bởi     nhiều trang ghi chép trong Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, hay các     sách của Phan Huy Chú, Nguyễn Thông không khác mấy với các bộ chính sử     triều Nguyễn như Đại Nam thực lục, Quốc triều chính biên toát yếu,     Đại Nam nhất thống chí.
 Riêng  về hoạt     động của đội Hoàng Sa, ngay từ thời đầu chúa Nguyễn, thì  cũng thẳng thắn     nhìn nhận rằng, hầu hết những trang ghi chép của các  sử gia Việt Nam viết     về hoạt động của đội Hoàng Sa kiêm quản Bắc  Hải (bao gồm cả Trường Sa) ít     nhiều cũng đã kế thừa, thậm chí có  những chỗ gần như nguyên văn một số sự     kiện mà Lê Quý Đôn mô tả  trong bộ sách Phủ biên tạp lục biên soạn     vào năm 1776, tức lúc Lê Quý Đôn theo lệnh của vua Lê - chúa Trịnh vào làm     Hiệp trấn Thuận Hóa.
 Cùng với những     trang ghi chép của các sử gia phong kiến Việt Nam, các quan ở Nội các triều     Nguyễn trong Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ,  đó là các tờ phúc     tấu, tấu trình lên cho vua của các đình thần như  Bộ Công, Bộ Hộ, các quan     đầu tỉnh…, và được vua phê chuẩn bằng mực  son  (châu bản), đặc biệt là     châu bản dưới thời vua Minh Mạng.
 Châu  bản tập     Minh Mạng số 54 cho biết, ngày 18 tháng 7 năm Minh Mạng thứ  16 (1835), nhà     vua đã ra chỉ dụ thưởng phạt cho những người Hoàng  Sa vào năm này (trong đó     có ghi phạt Phạm Văn Nguyên và những viên  giám thành 80 trượng vì tội trì     hoãn thời gian đi Hoàng Sa, thưởng  Võ Văn Hùng, Phạm Văn Sanh vì có công     hướng dẫn hải trình).
 Phúc  tấu của Bộ     Công ngày 12 tháng 2 năm Bính Thân (1836) cho Phạm Hữu  Nhật đi cắm cột mốc,     dựng bia chủ quyền. Tờ tấu của Bộ Hộ ngày 11  tháng 7 cũng năm Bính Thân     (1836) cho xin thanh toán lương thực cho  dân phu đi Hoàng Sa. Tờ dụ ngày 13     tháng 7 năm Minh Mạng thứ 18  (1837) trong Châu bản Minh Mạng tập 57 cho     biết việc sai các giám  thành, biền binh hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định đi     đo vẽ bản đồ,  cắm mốc chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa.
 Trong năm Minh     Mạng thứ 19 (1838) có 3 tờ tấu trình.
 Thứ  nhất, đó là     Tờ tấu của Bộ công ngày 2 tháng 4 (nhuận) cho biết việc  hoãn thi hành công     vụ đi đo giáp vòng quần đảo Hoàng Sa trong tháng  3 vì mưa gió kéo dài.
 Thứ  hai, cũng     là tờ tấu trình của Bộ Công ngày 21 tháng 6 năm (1838)  cho biết: hướng dẫn     viên đi Hoàng Sa là Võ Văn Hùng (người được ghi  trong văn bản cổ của dòng     họ Đặng là lo việc tuyển chọn binh phu và  đã tuyển chọn  đà công Đặng     Văn Siểm) đã cung cấp thông tin là quần  đảo Hoàng Sa có tất cả 4 nơi cần     khảo sát; lần đi năm này (1838) chỉ  đi được 3 nơi, còn một nơi không đi     được vì gió đang mạnh nên xin  để cho năm sau đi tiếp.
 Hướng  dẫn viên     Võ Văn Hùng cũng cho biết thêm, quần đảo Hoàng Sa có tất  cả 25 hòn, nhưng     trong năm chỉ đi đến được 12 hòn, khảo sát và vẽ  được 3 bản đồ riêng, 1 bản     đồ chung, còn lại 13 hòn chưa đến được.  Đây là tờ tấu trình hết sức đặc     biệt, không chỉ liên quan đến ông Võ  Văn Hùng có ghi trong văn bản cổ của dòng     họ Đặng mà còn ghi chép  khá cụ thể về việc số lượng các hòn đảo trong 4 nơi     thuộc quần đảo  Hoàng Sa, số lượng các hòn đảo đã được đo vẽ trong năm này.
 Tờ  tấu trình     thứ ba năm 1839 là tờ tấu trình của tỉnh Quảng Ngãi vào  ngày 19 tháng 7,     tức sau đó chưa đầy 1 tháng, quan tỉnh Quảng Ngãi  tấu trình về việc cho     miễn thuế cho 2 chiếc “bổn chinh thuyền” đã  đưa binh lính đo giáp vòng quần     đảo Hoàng Sa từ tháng 3 đến hạ tuần  tháng 6.
 3.4.  Trong các thủy thủ đi     theo đoàn có hai người thuộc đội súng ống,  cho phép chúng ta hiểu rằng     những người đi Hoàng Sa mang theo vũ khí  tự vệ. Những chữ “Do Kim thương     đội nhị danh”(thuộc đội súng ống, 2  tên) nằm ở dòng cước chú (ghi chú bên     dưới), nét mờ, chữ nhỏ nên  khi tiếp cận trực tiếp văn bản, chúng tôi đã xem     rõ những chữ này  (bản dịch in trên báo Thanh Niên không có phiên âm và dịch     nghĩa của  mấy chữ “do Kim thương đội, nhị danh”).
 4. Kết luận:Văn  bản tờ lệnh vừa     được dòng họ Đặng phát hiện và hiến tặng cho nhà  nước là một văn bản gốc,     chân thực, có niên đại tuyệt đối tin cậy.  Đây là một tài liệu quý giá góp     phần khẳng định chủ quyền của Việt  Nam đối với quần đảo Hoàng Sa. 
 * TS. Nguyễn Đăng Vũ, Giám đốc     Sở VH-TT & DL Quảng Ngãi.    TS. Nguyễn Xuân     Diện, PGĐ Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm 
 | 
Mất bò mới lo làm chuồng.Tài liệu quí hiếm thì phải copy ra U S B hoặc bộ nhớ di động chứ !
Trả lờiXóaMách nhỏ bác Diện:
XóaHiện nay đã có công nghệ đám mây cho phép ta có thể lưu trữ hàng trăm ngàn GigaByte (GB) dữ liệu lên trên mạng. Ví dụ như dịch vụ Google Drive của Google, SkyDrive của Microsoft, Cloud Drive của Amazon như 1 cái kho an toàn để ta lưu trữ tài liệu trên mạng.
Vì thế chúng ta nên lưu trữ những tài liệu quý giá, văn bản cổ liên quan đến lịch sử, chủ quyền biển đảo của VN lên trên mạng đề phòng máy vi tính bị hư hỏng đột ngột hoặc bị đánh cắp như trường hợp của TS Nguyễn Đăng Vũ.
Đăng ký Google Drive tại:
https://drive.google.com
Đăng ký SkyDrive tại:
https://skydrive.live.com
Tài liệu quí hì phải copy ra U S B hoặc ổ dĩa di động chứ!
Trả lờiXóaPhải gủi vào Gmail hoăc Yahoo giữ hộ chứ. Hớ hênh quá đồng chí Giám đốc ơi!
Trả lờiXóaThiển nghĩ TS Nguyễn Đăng Vũ đã lưu giữ tài liệu quan trọng bằng những phương tiện an toàn, khá phổ thông (CD, DVD, USB, ...).
Trả lờiXóaĐây chỉ là chỉ nam căn bản, sơ đẳng, của người xử dụng máy điện toán.
Điều đáng tiếc, cũng đáng trách, là tài liệu quý (mật) lại được tàng trữ trong máy tính xách tay.
Nói là nói vậy chớ tài liệu mật hay hiếm quý cất giữ nơi các thư viện lớn trên thế giới cũng không khỏi bị thất lạc.
Một kinh nghiệm khác nơi Viện Hán Nôm Hanoi, Tập Lưu Hương Ký đã bị ĐTT "ăn cắp" xử dụng như "tư liệu (tài liệu riêng)" hơn 40 năm. Sau khi tập Lưu Hương Ký trở về Viện Hán Nôm Hanoi, tôi có diễm phúc, đọc và in được phóng ảnh 25 trang bản viết tay của cụ Cử Nguyễn Văn Tú, nơi kho sách của một người bạn, nhờ sự trợ giúp của Viện Hán Nôm Hanoi. Nhân đây, xin TS Nguyễn Xuân Diện nhận lời cảm tạ chân thành của riêng tôi (NV).
Mất thế còn ít. Rồi còn mất nhiều nữa nếu không có biện pháp bảo vệ và đề phòng nghiêm ngặt. Kể cả những thư tịch cổ, những tấm bản đồ quý, những tư liệu lịch sử có giá trị,... ngay trong thư viện hoặc các cơ quan nhà nước cũng có thể dễ dàng biến mất. Kẻ thù vào tận trong nhà rồi mà cứ hớ hênh thế, không mất mới là chuyện lạ.
Trả lờiXóaMột nguyên tắc mà các cụ ta ngày xưa đã đúc kết rất chí lý: KHÔNG BAO GIỜ ĐƯỢC ĐỂ TRỨNG TRONG CÙNG MỘT GIỎ. Ngoài ra cách thức mà comment Vân trên đây nêu ra là rất tốt, phù hợp với trình độ công nghệ và văn hóa của xã hội hiện nay. Tôi đã từng cay đắng mất bao nhiêu dữ liệu, số liệu quý giá (đối với bản thân, trong đó cả mồ hôi và nước mắt thời làm NCS) khi cái thời máy tính còn chưa phổ biến lắm ở VN, vừa thoát ra khỏi dòng Quả Táo 2 sử dụng hệ điều hành DOS, và bắt đầu chuyển sang loại 286 (ở dưới nhiều so với dòng Pentium về sau) sử dụng hệ điều hành window, và công nghệ mạng thì hầu như chưa có ở VN, vậy mà cái ổ cứng đi toi (lỗi vật lý của ổ cứng chứ không phải các lỗi phần cứng khác hay phần mềm - bây giờ thì chỉ là "muỗi"). May còn lưu lại được một ít ở các đĩa mềm 780 K, một ít đĩa 1.44 M (sau thằng bạn cho cái ZIP cũ, sử dụng đĩa mềm dung lượng 100 M đã thấy quý như vàng, mà lúc đó đến cả đĩa CD cũng gần như chưa có). Sai cái vụ "khủng khiếp" đó một số đồng nghiệp trên viện KHVN (cũng đang làm NCS) tá hóa hết cả lên, vội vàng tìm cách "tẩu tán" thật nhanh các số liệu của mình, vì sắp bảo vệ luận án đến nơi rồi mà mất số liệu thì... coi như ... đã bước một chân sang Trâu Quỳ rồi. Đấy chỉ là sự cố hỏng hóc. Còn trộm cắp thủa đó chưa phát triển sang dòng công nghệ cao. Bây giờ thì chẳng những đạo văn, đạo nhạc, đạo thơ, đạo khoa học, đạo... ngân hàng (tiền của dân) giữa ban ngày, đạo "ghế", đạo ..."chỗ ngồi", đạo sức khỏe, đạo...lòng yêu nước, đạo... đủ thứ, nhưng với máy tính, ngoài laptop, bọn đạo trích bây giờ chỉ lấy mỗi cái ổ cứng thôi (cách đây không lâu ở đâu đó cũng đưa tin ở một trường đại học đạo trích vào khoắng toàn bộ ổ cứng của một phòng máy tính - thật gọn nhẹ và dễ dàng). Mà mọi người biết rồi đấy, chỉ cần lấy đi, ăn cắp đi có mỗi "trái tim" và "khối óc" (như cái ổ cứng chẳng hạn) thì coi như là bọn chúng được tất cả mọi thứ. Vì vậy, để đừng bị mất cắp, đừng để bị lũ đạo trích nó rờ đến, nó lừa phỉnh, dụ dỗ ngon ngọt bằng những ngôn từ mỹ miều, ngoài việc phải tỉnh táo, phải biết cách tự bảo vệ, biết cách cất trữ tốt nhất "tài sản" của mình, và đặc biệt phải biết chỗ để mà lưu trữ, để mà gửi gắm "trái tim" và "khối óc" của mình, phải cảnh giác và tỉnh táo trước mọi cám dỗ, phỉnh nịnh, kẻo không lại phạm sai lầm lần nữa, mang "cho không", "biếu không" bọn "đạo tặc", rồi lại vỡ mộng như đã và đang vỡ ...ra.lkk
Trả lờiXóaVậy là quá rõ rồi!
Trả lờiXóaCướp vào nhà, ngủ trong nhà.cướp đã đuổi chủ nhà ra ngoài.Chủ nhà giữ sổ đỏ để làm gì?
Trả lờiXóa