Thứ Hai, 17 tháng 11, 2025

CHUÔNG BÍCH UNG - MỘT BÁU VẬT CỦA VĂN MIẾU QUỐC TỬ GIÁM HÀ NỘI


CHUÔNG BÍCH UNG
Nhạc khí Thánh đường Quốc Tử giám 
Bài của Bùi Quang Tuấn
 
Chuông (鍾) vốn là nhạc khí, nhạc khí để sử dụng trong các nghi lễ tế tự. Năm nay (2025), nhân dịp kỷ niệm 20 năm thành lập Nhân Mỹ Học Đường và khai mạc triển lãm Hàn Mặc lần thứ XIII, một canh tế đức Đại Thành Chí Thánh Tiên Sư Khổng Tử cùng các vị tiên nho đã được long trọng cử hành tại Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội. May mắn được nhận một vai trò nhỏ trong lễ nghi, hầu cho chuông trở về với chức phận vốn có của nó. Nhân lúc đứng bên cạnh, khi tiếng chuông vang lên, đọc được văn khắc trên thân chuông, nay ghi chép lại đây để chia sẻ cùng các bạn.
 
I. KHÁI LƯỢC VỀ CHUÔNG BÍCH UNG
 
Chuông Bích Ung, hay còn tôn xưng là Bích Ung đại chung, được đúc vào năm Mậu Tý, Cảnh Hưng thứ 29 (1768), dưới triều vua Lê Hiển Tông - thời kỳ hưng thịnh của Nho học Việt Nam. Chuông hiện được treo tại nhà Bái Đường, thuộc quần thể di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám, nơi lưu giữ tinh hoa giáo dục và truyền thống khoa bảng cổ truyền của dân tộc.
 
Danh xưng "Bích Ung đại chung" có thể thông hiểu là "Chuông lớn của điện Bích Ung" - nơi hành lễ và giảng học của Quốc Tử Giám. Khác với chuông chùa hay chuông đền miếu thông thường, đây là nhạc khí lễ nghi của Nho giáo, mang giá trị biểu trưng cao cả cho sự trang nghiêm, trí tuệ và lòng tôn kính đối với các bậc tiên hiền.
 
II. VĂN KHẮC TRÊN CHUÔNG
 
Chữ Hán:
 
辟雍大鍾。
皇朝景興二十九年歲在戊子冬至,國子監奉鑄大鍾一口,小鍾四口。賜辛亥科第二甲進士,特進金紫榮祿大夫,入侍參從太子太保,工部尚書行禮部事,知國子監兼知中書監,入侍經筵兼國史總栽,春郡公阮儼。
賜戊辰科第三甲進士弘信大夫,入侍陪從,知禮番翰林院侍讀,行兵部右侍郎,御史臺僉都御史,兼國子監祭酒國史纂修武檰。賜庚辰科第三甲進士,朝列大夫,翰林院侍講,兼國子監祭酒國史纂修阮儷同監。
 
Phiên âm Hán Việt:
Bích Ung đại chung
 
Một mặt :
Hoàng triều Cảnh Hưng nhị thập cửu niên tuế tại Mậu Tí đông chí, Quốc tử giám phụng chú đại chung nhất khẩu, tiểu chung tứ khẩu. Tứ Tân Hợi khoa Đệ nhị giáp Tiến sĩ, Đặc tiến Kim tử Vinh lộc Đại phu, Nhập thị Tham tụng Thái tử Thái bảo, Công bộ Thượng thư, hành Lễ bộ sự, Tri Quốc tử giám kiêm Tri Trung thư giám, Nhập thị Kinh diên, kiêm Quốc sử Tổng tài, Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm.
 
Mặt sau :
Tứ Mậu Thìn khoa Đệ tam giáp Tiến sĩ, Hoằng tín đại phu, Nhập thị Bồi tụng, Tri Lễ phiên, Hàn lâm viện Thị độc, hành Binh bộ Hữu Thị lang, Ngự sử đài Thiêm Đô ngự sử, kiêm Quốc tử giám Tế tửu, Quốc sử Toản tu Vũ Miên.
 
Tứ Canh Tuất khoa Đệ tam giáp Tiến sĩ, Triêu liệt đại phu, Hàn lâm viện Thị giảng, kiêm Quốc tử giám Tế tửu, Quốc sử Toản tu Nguyễn Lệ, đồng giám chú.
 
Dịch nghĩa:
 
Chuông lớn Bích Ung
 
Mặt trước:
Vào tiết Đông chí năm Mậu Tý, Hoàng triều Cảnh Hưng thứ 29 (1768), Vị Tiến sĩ Đệ nhị giáp khoa Tân Hợi (1731), chức Đặc tiến Kim tử Vinh lộc Đại phu, Nhập thị Tham tụng Thái tử Thái bảo, Công bộ Thượng thư, hành Lễ bộ sự, Tri Quốc tử giám kiêm Tri Trung thư giám, Nhập thị Kinh diên, kiêm Quốc sử Tổng tài, Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm, vâng mệnh chủ trì việc đúc một quả chuông lớn và bốn quả chuông nhỏ tại Quốc Tử Giám. 
 
Mặt sau:
Vị Đệ tam giáp Tiến sĩ khoa Mậu Thìn (1748), chức Hoằng tín đại phu, Nhập thị Bồi tụng, Tri Lễ phiên, Hàn lâm viện Thị độc, hành Binh bộ Hữu Thị lang, Ngự sử đài Thiêm Đô ngự sử, kiêm Quốc tử giám Tế tửu, Quốc sử Toản tu Vũ Miên, cùng vị Đệ tam giáp Tiến sĩ khoa Canh Tuất (1760), chức Triều liệt đại phu, Hàn lâm viện Thị giảng, kiêm Quốc tử giám Tế tửu, Quốc sử Toản tu Nguyễn Lệ, đồng giám sát việc đúc chuông.
 
III. BA VỊ DANH NHO CHỦ TRÌ ĐÚC CHUÔNG
 
Như vậy, quả chuông này do ba vị danh nho, đồng thời là những người đứng đầu Quốc Tử Giám thời Lê Trịnh, đứng ra chủ trì đúc tạo. Đây là thời kỳ giáo dục Nho học khá hưng thịnh và được tôn vinh cao nhất.
 
Nguyễn Nghiễm (1708-1775), người xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, là người vâng mệnh chủ trì việc đúc chuông. Ông là bậc Tiến sĩ Đệ nhị giáp khoa Tân Hợi (1731), giữ nhiều chức vụ trọng yếu trong triều đình, đặc biệt là Tri Quốc Tử Giám và Quốc sử Tổng tài, được phong tước Xuân Quận công.
 
Vũ Miên (1710-1782), người xã Xuân Lan, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh, là Tiến sĩ Đệ tam giáp khoa Mậu Thìn (1748). Ông kiêm nhiệm chức Quốc tử giám Tế tửu và Quốc sử Toản tu. Ông từng cùng biên soạn tác phẩm Đại Việt lịch triều đăng khoa lục, ghi chép các vị khoa bảng qua các triều đại.
Nguyễn Lệ (tức Nguyễn Khản, còn có tên là Nguyễn Hân 阮欣), là Tiến sĩ Đệ tam giáp khoa Canh Tuất (1760). Lúc đúc chuông, ông đang giữ chức Tế tửu tại Quốc Tử Giám và Quốc sử Toản tu. Đáng chú ý, ông là con của Nguyễn Nghiễm, nối nghiệp cha trong sự nghiệp giáo dục và văn hóa.
 
IV. Ý NGHĨA TÊN GỌI "BÍCH UNG"
 
Khác với các quả chuông thông thường, chuông này không phải là chuông chùa hay chuông đền miếu, mà là nhạc khí biểu trưng của lễ nghi Nho giáo tại Văn Miếu. Điều đó được thể hiện rõ ràng ngay trong danh xưng "Bích Ung đại chung" - nghĩa là "Chuông lớn Bích Ung".
 
Nguồn gốc từ "Bích Ung":
 
"Bích Ung" vốn là danh xưng xuất hiện trong thiên Xuân Quan, sách Chu Lễ, là một trong Ngũ học (năm ngôi trường đại học) thời nhà Chu, bao gồm: Bích Ung, Thượng Tường, Đông Tự, Cổ Đông, và Thành Quân. Như Lễ Ký giải thích:
 
"Bích Ung, Thượng Tường, Đông Tự, Cổ Đông dữ Thành Quân vi Ngũ học, giai đại học dã."
(Bích Ung, Thượng Tường, Đông Tự, Cổ Đông cùng Thành Quân gọi là Ngũ học, đều là đại học.)
 
Trịnh Huyền (鄭玄) giải thích thêm: Trong Ngũ học nhà Chu, Bích Ung có dòng nước uốn quanh bao bọc, dòng phía nam là Thành Quân, phía bắc là Thượng Tường, phía đông là Đông Tự, phía tây là Cổ Tông: "Chu Ngũ học trung viết Bích Ung, hoàn chi dĩ thủy, thủy nam vi Thành Quân, thủy bắc vi Thượng Tường, thủy đông vi Đông Tự, thủy tây vi Cổ Tông."
 
Trong Ngũ học, Bích Ung ở trung tâm là tôn quý nhất; Thành Quân ở phía nam cũng rất tôn quý, cho nên có thể gọi chung cả Ngũ học là Bích Ung: "Ngũ học dĩ Bích Ung cư trung vi tối tôn, Thành Quân tại nam, diệc tôn, cố thống Ngũ học khả danh vi Bích Ung."
 
Như vậy, tên chuông này dùng từ "Bích Ung" với ý nghĩa chỉ nơi tôn nghiêm đạo học, biểu trưng cho địa vị cao quý của giáo dục Nho học.
 
V. BÍCH UNG TRONG TRUYỀN THỐNG GIÁO DỤC NHO HỌC
 
1. Khái niệm và Kiến trúc
 
Bích Ung (辟雍), cũng viết là "Bích Ung" (璧雍), vốn là Thái học do Thiên tử nhà Tây Chu lập ra để giáo dục con em quý tộc. Khuôn viên hình tròn, bốn phía bao quanh bởi hồ nước, hình dáng như vòng ngọc bích, phía ngoài cổng trước có cầu dẫn vào.
 
Nguồn gốc danh xưng:
"Bích" (辟) mượn làm chữ "bích" (璧), chỉ hình tròn như ngọc bích, lấy ý tượng trưng theo trời.
"Ung" (雍) có nghĩa là bốn phương có nước bao quanh, đất ở chính giữa.
 
Như Hán Ban Cố trong Bạch Hổ Thông - Bích Ung viết:
"Bích giả, bích dã. Tượng bích viên, hựu dĩ pháp thiên, ư Ung thủy trắc, tượng giáo hóa lưu hành dã."
(Bích là ngọc bích. Hình tròn như ngọc bích, lại lấy phép theo trời, bên cạnh dòng nước Ung, tượng trưng cho giáo hóa lưu hành khắp nơi.)
 
2. Chức năng
 
Bích Ung là nơi Thiên tử cử hành lễ nhạc, tuyên dương giáo hóa. Ngũ Kinh Thông Nghĩa nêu rõ:
"Thiên tử lập Bích Ung giả hà? Sở dĩ hành lễ nhạc, tuyên giáo hóa, giáo đạo thiên hạ chi nhân, sử vi sĩ quân tử, dưỡng Tam lão, sự Ngũ canh, dữ chư hầu hành lễ chi xứ dã."
(Thiên tử lập Bích Ung để làm gì? Là để cử hành lễ nhạc, tuyên dương giáo hóa, dạy dỗ người trong thiên hạ, khiến họ trở thành sĩ quân tử, nuôi dưỡng Tam lão, phụng sự Ngũ canh, và là nơi hành lễ với chư hầu.)
 
Lễ Ký - Vương Chế phân biệt:
 
"Đại học tại giao, Thiên tử viết Bích Ung, chư hầu viết Thản cung."
(Đại học ở nơi giao ngoại, Thiên tử gọi là Bích Ung, chư hầu gọi là Thản cung.)
Bích Ung bốn mặt bao quanh bởi nước, trong khi Thản cung chỉ ba mặt, thể hiện sự phân biệt tôn ty giữa Thiên tử và chư hầu.
 
3. Lịch sử Phát triển
 
Từ thời Đông Hán trở đi, các triều đại đều có Bích Ung, dùng làm nơi tôn sùng Nho học và cử hành điển lễ. Theo Hậu Hán Thư - Nho Lâm Liệt Truyện, Bích Ung thời Đông Hán được khởi công xây dựng vào năm Trung Nguyên thứ nhất đời Hán Quang Vũ Đế (56 SCN). Đến khi Minh Đế lên ngôi, mới thân hành cử hành lễ tại đây.
 
Đông Hán Lý Vưu trong Bích Ung Phú miêu tả: "Bích Ung nghiêm nghiêm, quy củ viên phương. Giai tự dũng thát, song quan tứ trương. Lưu thủy thương thương, tạo chu vi lương. Thần thánh ban đức, do tư dĩ khuông."(Bích Ung hùng vĩ, quy củ tròn vuông. Bậc thềm cửa sổ cửa lớn, hai lầu gác bốn phương trải rộng. Dòng nước chảy mênh mang, đóng thuyền làm cầu. Thánh thần ban đức, từ nơi này mà giáo hóa.)
 
Trừ cuối thời Bắc Tống từng dùng làm trường dự bị cho Thái học (gọi là "Ngoại học"), phần lớn Bích Ung được dùng để cử hành các lễ Tương ẩm, Đại xạ, hoặc tế tự.
 
VI. GIÁ TRỊ VÀ Ý NGHĨA
 
Chuông Bích Ung không chỉ là một di vật lịch sử, mà còn là biểu tượng sống động của truyền thống giáo dục Nho học Việt Nam. Việc ba vị danh nho - những người đứng đầu Quốc Tử Giám - chủ trì đúc chuông vào thời kỳ hưng thịnh nhất của Nho học, thể hiện sự trân trọng và tôn vinh giáo dục, văn hóa.
Tên gọi "Bích Ung" gắn liền với truyền thống giáo dục cao quý nhất của Trung Hoa cổ đại, là nơi Thiên tử lập học để giáo hóa thiên hạ. Việc Quốc Tử Giám Việt Nam đặt tên chuông theo danh xưng này thể hiện khát vọng nối dài mạch nguồn đạo học, biến Văn Miếu - Quốc Tử Giám thành một "Bích Ung" của đất Việt - nơi tôn vinh trí tuệ, đạo đức và lòng kính trọng đối với các bậc tiên hiền.
 
Hơn 250 năm sau, tiếng chuông vẫn vang vọng tại Văn Miếu, tiếp tục làm tròn sứ mệnh của một nhạc khí lễ nghi, gợi nhắc về một truyền thống văn hiến lâu đời, về những giá trị tinh thần mà thế hệ hôm nay cần gìn giữ và phát huy.
 
Kết ngữ
 
Nhân duyên được đứng bên cạnh chuông trong nghi lễ tế Khổng, được tận tay rung lên những âm thanh trang nghiêm ấy, là may mắn lớn. Tiếng chuông không chỉ là âm thanh, mà là tiếng nói của lịch sử, của đạo học, của những bậc tiền nhân đã dày công xây dựng nền giáo dục dân tộc. Mong rằng những dòng ghi chép này sẽ giúp mọi người hiểu thêm về giá trị văn hóa và lịch sử của chuông Bích Ung - một báu vật quốc gia đang được lưu giữ tại Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội.
 
 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét