Hà Nội trong mắt ai
Nguyễn Quang Dy
Viet-Studies.
“Hà Nội không vội được đâu” (khuyết danh)
Tôi mạn phép mượn cái tên phim của đạo diễn
Trần Văn Thủy (và câu châm ngôn hóm hỉnh đó) để nói về Hà Nội, vì
chưa tìm được câu gì hay hơn. Tôi biết ông Thủy không phản đối,
không phải chỉ vì ông ấy là bạn của tôi, mà còn vì lúc đó ông Thủy
cũng đang bí cờ thì tình cờ nghĩ ra cái tên đó cho bộ phim “như
được thần linh mách bảo” (lời ông Thủy).
Hà Nội đầy nghịch lý
Tuy ông Thủy từng bị “lên bờ xuống ruộng”
vì “Hà Nội trong mắt ai”, nhưng cuối cùng câu chuyện đã kết
thúc có hậu khi bộ phim và tác giả của nó trở thành nổi tiếng, như
một “hệ quả không định trước” (unintended consequence). Tôi
rất thích cái nghịch lý trớ trêu ấy. Phải chăng Hà Nội chính là một
thành phố đầy nghịch lý, vì vậy mà nó hấp dẫn và ám ảnh người ta như
một ma lực vô hình. Mỗi khi nghĩ về Hà Nội, tôi cứ tự hỏi tại sao
rất nhiều người (cả Ta lẫn Tây) lại bị hấp dẫn và ám ảnh đến thế bởi
cái thành phố nhỏ bé đầy bụi bẩn này.
Thật khó nhớ hết những bản nhạc, bài hát,
câu chuyện nói về Hà Nôi. Dù người ta có kêu ca phàn nàn về Hà Nội,
nhưng nếu ai đã từng sống lâu ở đó thì mỗi khi đi xa lại nhớ, lại
buồn, lại yêu Hà Nội hơn, như một mối tình khó quên (và khó lý
giải). Phải chăng Hà Nội đầy nghịch lý. Và chính những nghịch lý đó
đã tạo ra sự hấp dẫn vô hình “phi vật thể”.
Tôi không định kể chuyện Hà Nội vì sợ “múa
rìu qua mắt thợ”, mà chỉ muốn chia sẻ vài suy nghĩ thoáng qua về
những gì liên quan đến bản sắc (identity) của cái thành phố đặc biệt
này. Không phải vì nó là “trái tim của cả nước”, cũng không
phải vì Hà Nội mới to gấp mấy lần Hà Nội cũ, mà vì nó tiềm ẩn nhiều
nghịch lý hấp dẫn và ám ảnh nhiều người.
Câu chuyện khu phố cổ
Trong khu phố cổ Hà Nội (còn được gọi là “36
phố phường”) có khu phố Tàu (China town). Nhưng khi chiến tranh
với Trung Quốc xẩy ra (2/1979) người Hoa đã bị xua đuổi khỏi Hà nội.
Trong mấy năm sau đó, khu phố Tàu bị bỏ hoang như vô chủ, tiêu điều
như một khu phố ma, chẳng ai buồn đến. Thế rồi chẳng biết từ khi nào
và tại sao, khu phố đó lại hồi sinh, sầm uất trở lại, đầy sức sống
và hấp dẫn khách thập phương, cả Tây lẫn Ta.
Cả ngày lẫn đêm, khách thập phương đổ về khu
phố cổ như có nam châm hút dòng chảy năng lượng con người. Hễ chỗ
nào đông khách du lịch thì khách sạn và hàng quán lại mọc lên. Tuy
khu phố cổ chẳng có cái gì “hoành tráng”, nhưng tại sao nó lại hấp
dẫn khách du lịch hơn các nơi khác? Có người gọi đó là “cái hồn”
(the soul) của phố và vỉa hè như là giao diện của “Đông-Tây hội
ngộ”. Nói cách khác, đó là sự hấp dẫn vô hình, phi vật thể, gần
như siêu thực mà có người giải thích bằng phong thủy hay “thần thái”
(ambience).
Sự phục sinh hay biến đổi của khu phố cổ hầu
như tự phát do người dân, chứ không phải do quy hoạch đô thị, hay là
tác phẩm của các nhà kiến trúc. Hình như nó diễn ra theo một quy
luật hay do “bàn tay vô hình” nào đó, mà người ta chưa lý
giải được. Câu chuyện nên bảo tồn khu phố cổ thế nào vẫn còn là một
đề tài gây tranh cãi mãi, làm tốn nhiều giấy mực của các nhà nghiên
cứu và quản trị đô thị. Nhưng chính họ cũng chẳng can thiệp được mấy
vào cuộc sống sôi động của khu phố cổ này. Đó cũng là một thực tế và
một nghịch lý về Hà Nội.
Bên cạnh khu phố Tầu (China town) là khu phố
Tây (French town). Đó là hai đặc trưng truyền thống là di sản văn
hóa của Hà Nội. Từ xưa các cụ nhà ta đã nói “ăn cơm Tàu, ở nhà
Tây, lấy vợ Nhật” như tiêu chí sành điệu thời thượng. Tuy người
Hà Nội không thiếu cơm Tàu và nhà Tây, nhưng thiếu vợ Nhật. Phải
chăng để bù lại, người Hà Nội thích cưỡi xe máy Honda (họ nói xe
Honda máy móc bền và ít tốn xăng). Nhưng mấy anh Tây đến Hà Nội còn
thực dụng hơn, vì họ “ăn cơm Việt” (cơm bụi), “lấy vợ Việt” (đỡ
tốn), “ở nhà Việt” (nhà vợ).
Câu chuyện đô thị mới
Thực ra, nhà nước có thể đầu tư nhiều tỷ USD
để xây dựng một thành phố mới hoành tráng làm thủ đô như Naypyidaw
(Myanmar). Đó là một thành phố hiện đại nhưng “vô hồn” (soulless),
chẳng ai buồn đến, trừ các quan chức và viên chức chính phủ phải làm
việc (và gia đình họ). Yangon cũ kỹ (nhưng có hồn), khác với
Naypyidaw hiện đại (nhưng vô hồn). Chẳng ai thích một thành phố vô
hồn, giống như thành phố ma (ghost town). Nhớ lại cách đây đã lâu,
Việt Nam cũng định xây dựng thủ đô mới tại Xuân Mai hay đâu đó (thật
hú vía!).
Hà Nội ngày nay còn có một đặc trưng nữa là các khu đô thị mới (new towns) đang mọc lên quanh Hà Nội như các đô thị vệ tinh. Đây là một câu chuyện đáng nói, vì các khu đô thị mới cũng phản ánh một phần “hội chứng Naypyidaw” (thu nhỏ). Ngoài khu đô thị Trung Hòa-Nhân Chính là các khu đô thị Mỹ Đình hay Ciputra, với những tòa nhà ngày càng cao (cao mãi), như một tiêu chí “đổi mới” trong tư duy đô thị hóa (urbanization). Thực ra đối với người Hà Nội, nhà cao tầng (căn hộ) không thể thay thế được “nhà Tây” (biệt thự).
Hà Nội ngày nay còn có một đặc trưng nữa là các khu đô thị mới (new towns) đang mọc lên quanh Hà Nội như các đô thị vệ tinh. Đây là một câu chuyện đáng nói, vì các khu đô thị mới cũng phản ánh một phần “hội chứng Naypyidaw” (thu nhỏ). Ngoài khu đô thị Trung Hòa-Nhân Chính là các khu đô thị Mỹ Đình hay Ciputra, với những tòa nhà ngày càng cao (cao mãi), như một tiêu chí “đổi mới” trong tư duy đô thị hóa (urbanization). Thực ra đối với người Hà Nội, nhà cao tầng (căn hộ) không thể thay thế được “nhà Tây” (biệt thự).
Nếu đặc trưng của khu phố cổ là vỉa hè và
các con phố nhỏ mềm mại, chủ yếu để giao lưu, thì đặc trưng của khu
đô thị mới là các con đường to và các dãy nhà cao tầng/biệt thự được
quy hoạch thẳng hàng và cứng nhắc như trại lính. Mật độ xây dựng dày
đặc với hàng loạt nhà cao tầng dẫn đến mật độ dân cư quá đông làm
ách tắc giao thông, nhưng công năng của vỉa hè lại không ăn nhập với
nhu cầu đi bộ (trừ các công viên nội bộ trong khu dân cư). Đây là
một nghịch lý bất cập mà các nhà quy hoạch đô thị chắc chưa tính
đến, trong khi hầu hết các chủ đầu tư bất động sản chỉ quan tâm đến
xây nhà để bán nhằm thu hồi vốn (và lãi).
Tuy các nhà đầu tư bất động sản có thể ngụy
biện do quy luật cung - cầu, nhưng các nhà quy hoạch và quản trị đô
thị lại khó lý giải được những bất cập đang xuất hiện tại nhiều khu
đô thị mới, như một cái bong bóng khổng lồ (có thể vỡ). Thực ra các
nhà quy hoạch đô thị chỉ là “cánh tay kéo dài” (như công cụ) đang bị
thao túng bởi các nhóm lợi ích chỉ quan tâm đến cái lợi trước mắt,
mà không thấy rủi ro tiềm ẩn của đô thị hóa bằng mọi gía.
Tại sao họ lại quy hoạch các khu đô thị mới
như vậy? Chỉ có thể lý giải bằng mấy lý do: (1) di chứng chiến tranh
vẫn còn tồn đọng trong tư duy của họ, (2) ảnh hưởng của kiến trúc
theo mô hình Liên Xô/Trung Quốc/Hàn quốc vẫn tác động đến văn hóa
kiến trúc, (3) mục đích “chụp giật và đánh quả” vẫn chủ đạo và chi
phối quy hoạch đô thị. Yếu tố con người (nhân văn) và thiên nhiên
(cây xanh) không thực sự quan trọng với họ. Có lẽ vì thế mà Hà Nội
đã từng chủ trương chặt cây xanh cổ thụ, chỉ vì mục đích vụ lợi (hay
“đánh quả”).
Hà Nội xưa và nay
Theo tiến sĩ Nguyễn Văn Chính, Hà Nội vẫn chưa trở
thành một đô thị hoàn chỉnh, vẫn chỉ ở “phía bên kia của làng xã”.
Mỗi khi nói đến Hà Nội như một thực thể văn hóa có bản sắc riêng,
người ta không được quên có một “Hà Nội nhà quê” và một “Hà
Nội kẻ chợ”. Giáo sư sử học Trần Quốc vượng thì kết luận, “Ba
chữ ‘Nông thôn, Nông dân và Nông nghiệp’ là hằng số của lịch sử văn
hóa Việt Nam”. (“Đi
tìm bản sắc văn hóa Hà Nội”,
Nguyễn Văn Chính, Vietnam Net, 17/9/2014). Còn nhà
phê bình Vương Trí Nhàn thì cho rằng Hà Nội bốn thập kỷ sau chiến
tranh vẫn trông giống một thành phố thời hậu chiến, với những bức
tường loang lổ rạn nứt, và những ngôi nhà cũ kỹ, ọp ẹp, chắp vá... “Cả
Hà Nội mang dáng dấp một cái chợ phóng to” (“Khi Hà Nội trở
thành chính mình”, Vương Trí Nhàn, 28/4/2015).
Hà Nội là một đô thị đặc biệt vì nó
là một thành phố kiểu Á - Âu điển hình. Đây là nét độc đáo hiếm thấy
trong các thành phố cổ ở châu Á.
Hà Nội không chỉ có dấu ấn văn hóa của người Hoa, mà
còn có di sản văn hóa của người Pháp. Có người nói “Hà Nội đẹp
như Paris”. Đó là cách ví von để mô tả khu phố Tây, với những
đường phố và biệt thự Pháp. Ngoài phố Tràng Tiền và Hàng Khay, còn
có các phố Rue Jules Ferry (Hàng Trống), Rue Gia Long (Bà Triệu),
Rue Francis Garnier (Đinh Tiên Hoàng), Boulevard Rollandes (Hai Bà
Trưng), Boulevard Careau (Lý Thường Kiệt) và Boulevard Gambetta
(Trần Hưng Đạo)…
Vào đầu thế kỷ 20, Hà Nội tuy nhỏ bé nhưng
là “hòn ngọc Viễn Đông”. Nay hòn ngọc đó đã biến thành một
công trường khổng lồ, ngổn ngang, như thời chiến. Ấn tượng nhất là
những cột điện với những cuộn giây cáp nhằng nhịt như cái mạng nhện
khổng lồ mà Bill Gates dù thông minh đến mấy cũng không thể nào hiểu
nổi. Nhưng cái cột điện vẫn chưa nguy hiểm bằng cái loa phường vì nó
gây ô nhiễm âm thanh như để khủng bố tai người dân Hà Nội suốt mấy
thập kỷ qua. Cả hai tuyệt tác nghệ thuật đó vẫn mặc nhiên tồn tại
một cách khó hiểu, bất chấp thời gian như một thứ bảo tàng vĩnh cửu.
Đó là một nghịch lý mang bản sắc Hà Nội, như để nhắc nhở người dân
thủ đô văn minh phải nhớ thời chiến tranh và bao cấp.
Hà Nội đã thay đổi quá nhiều: nay có 7,5
triệu dân (2015), gồm cả Hà Đông và Sơn Tây, với nhiều khu đô thị
mới. Nhưng hình như “nhà càng cao thì văn hóa càng thấp”, đặc biệt
là văn hóa giao thông. Nạn kẹt xe ngày càng trầm trọng, với số lượng
xe máy khổng lồ (hơn 6 triệu chiếc). Đường phố Hà Nội ngày càng
giống đường nông thôn, vì đầy ổ gà và sống trâu. Nhiều đoạn đường
xuống cấp nhanh, đi xe máy rất nguy hiểm vì những ổ gà hay nắp cống
làm xe nhảy chồm lên như vượt chướng ngại vật. Ngày trước, thỉnh
thoảng còn thấy người ta duy tu đường, nhưng nay chỉ thấy họ thay
nhau đào đường hay vỉa hè để làm cống, đặt cáp, hay lát lại tạm bợ,
chắp vá, tùy tiện cho xong chuyện, chẳng biết ai chịu trách nhiệm.
Mỗi khi ra đường, người dân lo nơm nớp như “thập
diện mai phục”. Người nước ngoài mới tới Hà Nội lần đầu không
dám qua đường một mình vì sợ xe máy. Nếu buộc phải qua đường thì
phải bám vào tay người khác, liều mạng nhắm mắt đưa chân như đánh
bạc với thần chết. Theo Phó Thủ tướng Trương Hòa Bình, Chủ tịch Ủy
ban ATGT Quốc gia, mỗi ngày cả nước có 24 người chết và 60 người bị
thương vì tai nạn giao thông (VietnamNet, 11/5/2017). Theo Chủ tịch
Ủy ban TWMTTQVN Nguyễn Thiện Nhân, “số người chết do tai nạn giao
thông trong 3 năm bằng số người chết do dịch bệnh 100 năm”
(VNExpress, 24/11/2016).
Không phải chỉ có tai nạn giao thông đang đe
dọa sinh mạng người dân Hà Nội, mà ô nhiễm không khí, nguồn nước,
thực phẩm, và rác thải là những rủi ro tiềm ẩn gây bệnh tật, như “thập
diện mai phục”. Nhiều người phải bán nhà mặt đất để mua căn hộ
cao tầng vì lo sợ ô nhiễm không khí. Chủ tịch Hà Nội Nguyễn Đức
Chung thừa nhận ô nhiễm môi trường ở Hà Nội “đang ở mức báo động
đỏ”. Theo ông Chung, nguồn ô nhiễm lớn nhất xuất phát từ 2,5
triệu xe máy cũ, đã hết hạn sử dụng từ trước năm 2000. (VNExpress,
17/2/2017).
Gần đây, Trung tâm Phát triển Sáng tạo Xanh
(GreenID) cho biết trong năm 2016, Hà Nội đã trải qua 8 đợt ô nhiễm
không khí nghiêm trọng. Chỉ số ô nhiễm bụi PM 2.5 ở Hà Nội cao gần
gấp 2 lần tại thành phố HCM. Về lượng bụi PM 2.5 trung bình năm 2016
ở tp HCM là 28,23 µg/m3 (quy chuẩn là 25 µg/m3), trong khi tại Hà
Nội chỉ số này lên tới 50,5 µg/m3, cao gấp đôi so với ngưỡng quy
chuẩn của quốc gia và cao gấp 5 lần so với ngưỡng trung bình của
WHO. Hà Nội chỉ đứng sau New Delhi (124µg/m3). (Zing, 17/2/2017).
Đằng sau câu chuyện vỉa hè
Chủ tịch Hà Nội Nguyễn Đức Chung đã nổi lên
như một ngôi sao sau mấy sự kiện gần đây, làm ông Chung được lòng
dân. Đó là cách giải quyết ôn hòa vụ tranh chấp gay cấn tại Đồng
Tâm, và cách xử lý triệt để vụ giải tỏa vỉa hè tại Hà Nội. Tuy Hà
Nội làm triệt để, dám vạch thẳng sự thật là nguyên nhân chính do
công an phường hay quận bảo kê các nhóm lợi ích địa phương, nhưng
các “lực lượng chức năng” lại không đập phá vỉa hè thô bạo như trong
thành phố HCM. Người ta nói vui rằng ông Chung “tuy là công an
nhưng hơi bị được”.
Di sản chiến tranh với đặc thù cực đoan và
thô bạo vẫn tiềm ẩn trong tư duy và hành động của nhiều người trong
chính quyền. Nó phản ánh vào tư duy quy hoạch đô thị (trông như trại
lính) hay chiến dịch dẹp vỉa hè (như thời chiến). Hình ảnh ông Đoàn
Ngọc Hải (phó chủ tịch quận 1) trực tiếp dẹp vỉa hè tại TP HCM là
một ví dụ điển hình về cực đoan và thô bạo đến vô cảm. Tuy Việt Nam
đã biến thành thị trường, nhưng vỉa hè vẫn là chiến trường.
Theo Robert Neuwirth, nền kinh tế phát triển
nhanh nhất thế giới không phải là Trung Quốc, mà là “System D”, với
GDP là 10 ngàn tỷ USD, chỉ kém Mỹ là 14 ngàn tỷ USD. (“The Shadow
Superpower”, Robert Neuwirth, Foreign Policy, October 28, 2011).
“System D” là viết tắt từ tiếng Pháp “debrouiller” (hay debrouille),
có nghĩa là khả năng xoay sở và thích ứng với mọi hoàn cảnh để tồn
tại. Đó là nền kinh tế ngầm gồm cả buôn lậu và trốn thuế, mà người
ta còn gọi lịch sự là “tiểu ngạch”, đang nuôi sống hàng triệu người
thất nghiệp và buôn bán nhỏ. Người Việt Nam rất giỏi về “System D”
nên đã tồn tại được trong chiến tranh cũng như thời bao cấp hay
khủng hoảng kinh tế. Hà Nội là một thủ đô của “System D”.
Quyết định giải tỏa vỉa hè tuy đúng, nhưng
nếu làm cực đoan và thô bạo thì sai, vì nó phản tác dụng và dẫn đến
những hệ quả khó lường. Tại các nước đang phát triển (như Việt Nam),
vỉa hè và chợ cóc tại các đô thị là một phần của “System D”, đang
nuôi sống hàng triệu người dân mà nhà nước chưa đủ khả năng bảo trợ.
Ngay tại các nước phát triển, hệ thống phúc lợi và an sinh xã hội
cũng chưa thể thay thế được “System D”. Khi dẹp vỉa hè và chợ cóc có
lẽ chính quyền chưa nghiên cứu kỹ xem liệu nó có hệ quả kinh tế gì
đối với xã hội.
Robert Neuwirth cho rằng do khả năng ứng phó
(spontaneous) và biến báo (improvisation) nên “System D” sẽ đóng vai
trò chủ yếu (crucial) cho sự phát triển của các đô thị trong thế kỷ
21. Tổ chức OECD dự báo là đến năm 2020, “System D” sẽ thuê 2/3 nhân
công trên thế giới. Hơn nữa, “System D” còn phổ cập được công nghệ
mới ra thế giới với giá rẻ hơn để người nghèo cũng tiếp cận được. Nó
có thể phân phối sản phẩm công bằng hơn, với giá rẻ hơn các công ty
lớn. Nói cách khác, “System D” sẽ trở thành “siêu cường kinh tế
lớn thứ hai thế giới”, và là tương lai của nền kinh tế toàn cầu.
Chính Trung Quốc đã trở thành trung tâm thương mại và công xưởng của
thế giới một phần bởi vì họ biết cách vận dụng sân chơi của “System
D”.
Đằng sau câu chuyện Kong
Cách đây khoảng 2 tháng, UBND TP Hà
Nội đã nhận được công văn của Bộ Văn hóa về việc dựng mô hình giới
thiệu phim “Kong: Skull Island” tại Hồ Gươm. Theo Bộ Văn
hóa, “nhằm tận dụng ảnh hưởng dự án phim có mức đầu tư cao, có
bối cảnh chính quay tại Việt Nam và được công chúng toàn cầu chờ
đợi, Bộ phối hợp với Công ty phát hành tổ chức một loạt các hoạt
động nhằm thúc đẩy quảng bá du lịch Việt Nam nói chung và thủ đô Hà
Nội nói riêng”. Nhưng trước phản ứng bất bình của dư luận, UBND
TP Hà Nội đã trả lời Bộ văn Hóa là việc dựng mô hình khỉ Kong tại
khu vực tượng đài “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” hoặc các khu vực
khác xung quanh Hồ Gươm, là “không phù hợp”. (VNExpress,
14/3/2017).
Người ta hiểu Hà Nội bác yêu cầu
trên là có vai trò của ông Nguyễn Đức Chung, vì thông thường Sở Văn
Hóa phải nghe theo Bộ Văn Hóa. Không chỉ muốn dựng mô hình khỉ Kong
tại Hồ Gươm, Bộ Văn Hóa còn chọn đạo diễn Jordan Vogt-Robert làm
“đại sứ du lịch”. Đây là một quyết định còn ngớ ngẩn hơn là trước
đây đã chọn cô Nhã Kỳ hay cậu Bobby Chin làm “đại sứ”, phản ánh tầm
nhìn văn hóa và chính trị thiển cận của những người làm công tác văn
hóa và du lịch (nếu không phải nhóm lợi ích còn có động cơ gì khác
phía sau).
Theo các nguồn tin trong ngành điện ảnh, hãng phim
Legendary (chủ đầu tư của Kong: Skull Island) đã được tập
đoàn Wanda (Đại Liên Vạn Đạt) của trùm bất động sản Trung Quốc Wang
Jianlin (Vương Kiện Lâm) mua vào năm 2015 với giá 3,5 tỷ USD. (Vương
Kiện Lâm là cựu sĩ quan quân đội Trung Quốc). Sự thâm nhập của Trung
Quốc vào Hollywood làm người Mỹ lo lắng. Năm 2016, 18 dân biểu của
cả hai đảng, trong đó có chủ tịch Ủy ban tình báo Hạ viện, đã yêu
cầu giám sát chặt chẽ hơn các vụ đầu tư, trong đó có vụ Wanda mua
Legendary. Quốc Hội Mỹ đặt câu hỏi, “Liệu định nghĩa về an ninh
quốc gia có nên mở rộng để đề cập những mối lo về tuyên truyền và
kiểm soát truyền thông và các định chế quyền lực mềm?”
Chẳng lẽ ngành Văn hóa - Du lịch
Việt Nam không còn cách gì khác, mà phải lấy hình ảnh con khỉ Kong
đã lỗi thời và nhàm chán (thậm chí phản cảm về văn hóa) để quảng bá
cho hình ảnh du lịch Viêt Nam đang bị sa sút vì quản trị yếu kém.
Ngoài bối cảnh đẹp, đằng sau bộ phim Kong này là câu chuyện gì? Phải
chăng Việt Nam bị phụ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc về kinh tế, nay
cần phụ thuộc nốt về văn hóa cho “đúng quy trình”? Chẳng lẽ cụ
Tản Đà vẫn còn đúng, “Dân hai nhăm triệu ai người lớn. Nước bốn
ngàn năm vẫn trẻ con”.
Thay lời kết
Hà Nội (hay Sài Gòn) muốn “trở về tương
lai” (back to the future) như “Hòn ngọc Viễn đông” thì
trước hết phải đổi mới thể chế, dù “muộn còn hơn không”.
Nếu chưa đổi mới được cả nước, thì hãy đổi mới thành phố của mình,
nếu không muốn tụt hậu so với Lào và Campuchia. Chính quyền và người
dân đều phải đổi mới, vì “dân nào thì chính phủ ấy”.
Đã đến lúc Hà Nội cần chứng minh dù “gần mặt
trời” nhưng vẫn có thể “biến điều không thể thành có thể”.
Câu nói “Hà Nội không vội được đâu” có thể đúng với thời Chủ
tịch Nguyễn Thế Thảo, nhưng chưa chắc đúng với thời Chủ tịch Nguyễn
Đức Chung. Ông Chung ít nhất đã hai lần chứng minh ngược lại khi
trực tiếp chỉ đạo giải tỏa vỉa hè Hà Nội và xử lý sự cố Đồng Tâm một
cách ôn hòa nhưng hiệu quả, tuy hai sự kiện đó rất “nhạy cảm”.
Nếu Đồng Tâm là một bước ngoặt, thì Hội nghị
TW5 là một cái mốc đo thực tâm chống tham nhũng cũng như chủ trương
đổi mới thể chế (và nhất thể hóa) của Việt Nam. Nếu chống tham nhũng
là cái ngọn thì đổi mới thể chế là cái gốc (trong mối quan hệ nhân
quả). Trong khi người Thái đang biến Việt Nam thành thị trường của
họ (mua lại doanh nghiệp), thì người Việt đang biến đất nước mình
thành chiến trường (bằng tranh giành quyền lực).
NQD. 12/5/2017
Tác giả gửi cho viet-studies
ngày 12-5-17.
Tác giả viết như một dư luận viên. Ông Nguyễn Đức Chung chẳng có gì đáng khen cả. Ông chỉ thực hiện hòa giải vụ Đồng tâm theo chỉ đạo của trên thôi. Ông đã từng chối bỏ trách nhiệm khi yêu cầu Luật sư Trần Vũ Hải phải bỏ những gì ông nói qua điện thoại sẽ về với dân Đồng tâm. Ông đã về, nhưng về huyện Mỹ Đức với ý định ban phát ân huệ ( hay bắt đại diện của dân cho dễ). Nhưng dân Đồng Tâm hiểu thấu tim đen của ông. Họ không đến. Buộc lòng ông phải về gặp dân. Vậy thôi! Về năng lực của ông, mọi người tìm hiểu sẽ thấy. Ông là chủ tịch yếu nhất về năng lực cũng như sức khỏe của các đời chủ tịch Hà Nội từ năm 1945 trở lại đây.
Trả lờiXóa