Tự do hàng hải 
và Chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa
Thái Văn Cầu
02-10-2014
Đầu tháng 5/2014, Trung Quốc bất ngờ di 
chuyển giàn khoan Hải Dương-981 đến một địa điểm cách đảo Trí Tôn (Hoàng
 Sa) khoảng 17 hải lý, cách đảo Lý Sơn (Đà Nẵng) 120 hải lý, sâu trong 
vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam, và cách đảo Hải Nam (Trung 
Quốc) 180 hải lý. 
Giữa tháng 7, Trung Quốc thông báo giàn khoan Hải Dương-981 hoàn thành nhiệm vụ trước thời hạn và rút khỏi EEZ của Việt Nam. 
Trong thời gian Trung Quốc đặt giàn 
khoan Hải Dương-981 sâu trong EEZ của Việt Nam, có nhiều hoạt động ở tầm
 mức quốc tế và quốc gia phản đối hành động vi phạm trắng trợn pháp luật
 quốc tế và thoả thuận giữa lãnh đạo Việt Nam-Trung Quốc năm 2011.[1] 
Mục đích của bài viết để phân tích mối 
quan hệ giữa tự do hàng hải và chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa, khả năng 
giải quyết tranh chấp biển đảo của Việt Nam, nhằm đóng góp vào quá trình
 bảo vệ quyền lợi đất nước một cách hữu hiệu và thiết thực.
- Quan hệ giữa tự do hàng hải và chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa:
Chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa là đề 
tài nghiên cứu, tranh luận, và trao đổi của giới quan tâm ở trong nước 
và ngoài nước trong gần 40 năm qua, dù mức độ từng lúc, từng nơi, thay 
đổi khác nhau. 
Quyết định của Toà án Quốc tế (ICJ) 
trong hơn 60 năm qua cho thấy chứng cứ xác lập chủ quyền lãnh thổ phải 
được xây dựng trên cơ sở lịch sử và pháp luật quốc tế. 
Trên cơ sở này, nguồn tư liệu cổ của 
Việt Nam và của phương Tây chứng minh rằng Việt Nam hành xử chủ quyền ở 
Hoàng Sa, hợp lý và hợp pháp, trong hơn 300 năm, cho đến khi Trung Quốc 
sử dụng vũ lực cưỡng chiếm toàn bộ Hoàng Sa đầu năm 1974, khiến 74 chiến
 sĩ hải quân Quân đội Việt Nam Cộng hoà hy sinh. 
Mặc dù tư liệu cổ về chủ quyền Trường Sa
 chưa đầy đủ, vào giữa thập niên 1920, Toàn quyền Pháp ở Đông Dương 
tuyên bố chủ quyền ở hai quần đảo, hành xử chủ quyền cho đến khi rời 
khỏi Việt Nam năm 1956, để lại quyền hành xử chủ quyền cho Việt Nam Cộng
 hoà. Vào tháng 3/1988, Trung Quốc sử dụng vũ lực cưỡng chiếm đá Gạc Ma 
và 5 đá khác ở Trường Sa, khiến 64 chiến sĩ hải quân Quân đội Nhân dân 
Việt Nam hy sinh.[2] 
Chủ trương của Trung Quốc là “không đàm 
phán” về Hoàng Sa với Việt Nam, “Hoàng Sa không phải là khu vực tranh 
chấp”, “Việt Nam đã thừa nhận Hoàng Sa thuộc Trung Quốc”, “Trung Quốc có
 bằng chứng xác đáng cho chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa”, v.v. 
Để hỗ trợ cho chủ trương trên, từ đầu 
thập niên 1990 cho đến nay, Trung Quốc từng bước hoàn chỉnh đội ngũ học 
giả, bao gồm thành phần trí thức đào tạo từ phương Tây, có quan hệ tốt 
với các trường đại học uy tín, tích cực phổ biến, trình bày quan điểm 
của Trung Quốc với cộng đồng thế giới.[3] 
Mặc dù một số học giả Việt Nam, độc lập 
hay trong cơ chế nhà nước, đã vạch rõ các sai lầm, thiếu sót nghiêm 
trọng về chứng cứ chủ quyền trong tư liệu cổ Trung Quốc, không ít học 
giả phương Tây, do bị ảnh hưởng bởi nguồn tư liệu cổ, mạnh về số lượng 
nhưng yếu về chất lượng, và bởi đội ngũ học giả của Trung Quốc, và do 
không tiếp nhận được phản biện của học giả Việt Nam, đưa nhận định về 
chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa bất lợi cho Việt Nam.[4] 
Bên cạnh sự lớn mạnh của quyền lực “mềm”, Trung Quốc thúc đẩy phát triển quyền lực “cứng” với tốc độ nhanh vượt bực ở Hoàng Sa. 
Sân bay đảo Phú Lâm (Woody Island), đảo 
bị Trung Quốc chiếm đóng bất hợp pháp đầu năm 1956, được hiện đại hoá 
với đường băng dài 2.700m cho máy bay chiến đấu thế hệ thứ tư Su-30MKK, 
Shenyang J-11, với khả năng bay hơn 3.000 km, có tầm hoạt động đến tận 
Manila (Philippines), hay Sài Gòn. 
Ngoài cảng biển ở đảo Quang Hoà (Duncan 
Island), đảo bị Trung Quốc chiếm đoạt bằng vũ lực năm 1974, căn cứ hải 
quân đảo Phú Lâm được hiện đại hoá và sử dụng cho các tàu khu trục nhỏ 
và lớn, tàu tuần tra 5.000-tấn, của Trung Quốc. 
Song song với sự tăng cường mức độ tác 
chiến quân sự trên không và trên biển, Trung Quốc thiết lập ở Hoàng Sa 
một trung tâm thu thập tín hiệu, thông tin tình báo, từ Việt Nam, 
Philippines, Malaysia, v.v. qua hệ thống vệ tinh ở quỹ đạo thấp, và giám
 sát sự vận chuyển tàu thuyền qua lại gần khu vực Hoàng Sa.[5] 
Gần đây nhất, trong cùng thời gian đặt 
giàn khoan Hải Dương-981 sâu trong EEZ của Việt Nam, Trung Quốc còn 
thách thức pháp luật quốc tế khi cho tiến hành xây cất với quy mô lớn ở 
Gạc Ma và các đá chiếm đoạt của Việt Nam năm 1988.[6] 
Hội nghị Liên hiệp quốc về Thương mại và
 Phát triển (United Nations Conference on Trade and Development 
(UNCTAD)) năm 2011 cho biết gần 8,4 tỷ tấn, hay hơn một nửa tổng số hàng
 hoá vận chuyển bằng đường biển hàng năm của toàn thế giới, đi qua Biển 
Đông, phần lớn là qua khu vực lân cận Hoàng Sa.[7] 
Số lượng hàng hoá vận chuyển có định giá
 khoảng 5.300 tỷ USD, trong đó 1.200 tỷ USD là của Mỹ. Mậu dịch này tạo 
thêm khoảng 320 tỷ USD thâm hụt thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc, chiếm 
3,5% GDP của Trung Quốc cho năm 2013.[8] 
Vì không có bằng chứng thuyết phục về 
chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa, và vì chiếm đóng Hoàng Sa và một phần 
Trường Sa bất hợp pháp, Trung Quốc luôn luôn từ chối đàm phán với Việt 
Nam. 
Không những thế, Trung Quốc tận dụng vị 
thế chiến lược ở Hoàng Sa-Trường Sa vào tham vọng chiếm đoạt Biển Đông 
của họ, đe dọa nghiêm trọng tự do hàng hải trong một khu vực cực kỳ quan
 trọng của thế giới. 
- Khả năng giải quyết tranh chấp Hoàng Sa-Trường Sa:
- Hành động quân sự không khả dụng
“Giấc mộng Trung Hoa” là cụm từ được Tập Cận Bình nêu lên đầu tiên khi trở thành lãnh đạo Trung Quốc cuối năm 2012. 
Mặc dù họ Tập nhấn mạnh sự “trỗi dậy hoà
 bình” của Trung Quốc, nguy hiểm đáng kể nhất trong “Giấc mộng Trung 
Hoa” nằm ở chỗ nó đề cao chủ nghĩa dân tộc và, qua bộ máy tuyên truyền 
hùng hậu, khiến nhân dân Trung Quốc khó nhận thức được sai lầm lớn lao 
của lãnh đạo Trung Quốc trong đòi hỏi chủ quyền Biển Đông, bao gồm chủ 
quyền Hoàng Sa-Trường Sa của Việt Nam. 
Để phục vụ cho “Giấc mộng Trung Hoa” qua
 cái-gọi-là “trỗi dậy hoà bình”, ngân sách quốc phòng của Trung Quốc 
không ngừng gia tăng trong những năm qua. Ngân sách cho năm 2014 là 132 
tỷ USD, tăng 12,2% so với năm 2013. Theo một ước tính khác của tạp chí 
quốc phòng IHS Jane’s, ngân sách này có thể lên đến 148 tỷ USD.[9] 
Mức gia tăng 12,2% trong ngân sách quốc 
phòng của Trung Quốc tương đương với 15 tỷ USD, một con số cao hơn tổng 
số ngân sách quốc phòng của ba nước Việt Nam, Malaysia và Philippines 
hợp lại.[10] 
Nhằm đối phó với mưu đồ ngày càng rõ rệt
 của Trung Quốc để thống trị Biển Đông, kể cả biển đảo của Việt Nam, 
Việt Nam cần đẩy mạnh hiện đại hoá quân đội để bảo vệ chủ quyền và quyền
 lợi của đất nước. 
Tuy nhiên, do sự bất cân xứng về tương 
quan lực lượng giữa hai nước và do chủ trương của Việt Nam không liên 
minh với nước nào khác, giải quyết tranh chấp với Trung Quốc bằng hành 
động quân sự không thể là biện pháp tốt nhất cho Việt Nam. 
- Giải quyết bằng đàm phán hoà bình
Vào cuối tháng 9/1975, trong cuộc họp 
với lãnh đạo Trung Quốc, khi Bí thư Thứ nhất đảng Lao động Việt Nam Lê 
Duẩn nêu vấn đề Hoàng Sa-Trường Sa, Phó thủ tướng Trung Quốc Đặng Tiểu 
Bình thừa nhận có tranh chấp và đề nghị hai nước thảo luận sau.[11] 
Sau khi hai nước bình thường hoá quan hệ
 đầu thập niên 1990, bên cạnh thường xuyên kêu gọi Việt Nam tôn trọng 
“phương châm 16 chữ”, “4 tốt”, tất cả vì đại cục, Trung Quốc không ngừng
 phát triển quyền lực mềm và quyền lực cứng trên Biển Đông, cụ thể như 
Trung Quốc cử quan toà tham gia vào Toà án Quốc tế và Toà án Luật Biển 
(ITLOS); Trung Quốc có hàng trăm luận án tiến sĩ, hội thảo về đề tài 
Biển Đông, hải quân Trung Quốc lớn mạnh và hiện diện rộng khắp trên Biển
 Đông, v.v. 
Từ đầu thập niên 2000 cho đến nay, Trung
 Quốc hàng năm ngang nhiên tuyên bố lệnh cấm đánh cá trên vùng biển cổ 
truyền của Việt Nam, tàu tuần tra Trung Quốc không ngừng gây thiệt hại 
tài sản cho ngư dân hành nghề ở Hoàng Sa, ngăn chặn các dự án khảo sát, 
thăm dò bên trong EEZ của Việt Nam, v.v.[12] 
Vào tháng 1/2005, lực lượng tuần tra 
Trung Quốc vi phạm nghiêm trọng pháp luật quốc tế khi nổ súng vào tàu 
đánh cá Việt Nam, khiến 9 ngư dân thiệt mạng, rồi vu cáo cho nạn nhân là
 “cướp biển”. [13] 
Vào đầu tháng 10/2011, với sự chứng kiến
 của lãnh đạo hai đảng, Việt Nam và Trung Quốc ký kết thỏa thuận nhằm 
giải quyết vấn đề trên biển “thông qua đàm phán và hiệp thương hữu 
nghị”.[14] 
Dù đã ký kết thỏa thuận, thực tế cho 
thấy Trung Quốc không hề từ bỏ tham vọng từ ngàn xưa đối với Việt Nam: 
Trung Quốc tiếp tục xâm phạm vùng biển của Việt Nam, tiếp tục đánh đập, 
cướp phá tàu ngư dân Việt Nam, tiếp tục leo thang những hành động phi 
pháp ở Hoàng Sa và Trường Sa, mà cao điểm là ngang nhiên đặt giàn khoan 
Hải Dương-981 sâu trong EEZ của Việt Nam và tiến hành thay đổi cấu trúc 
đá thành đảo nhân tạo ở Trường Sa.[15] 
Gần 40 năm sau khi lãnh đạo Trung Quốc 
đề nghị hai nước thảo luận sau về tranh chấp Hoàng Sa-Trường Sa, dù tình
 hình trở nên tồi tệ hơn nhiều, Việt Nam giữ chủ trương giải quyết tranh
 chấp bằng đàm phán hoà bình, song song với việc phản đối ngoại giao 
trước các hành động hung hãn, khiêu khích, hay trắng trợn xâm lược của 
Trung Quốc trên Biển Đông. 
Quyết định của Toà án Quốc tế trong các 
vụ kiện giữa Honduras và Nicaragua về khu vực Biển Caribbean, giữa 
Malaysia và Singapore về đảo Pedra Branca, giữa Norway và Sweden về 
Grisbadarna Banks, giữa Bahrain và Qatar về quần đảo Hawar, cho thấy một
 nước bị mất chủ quyền nếu không hành xử chủ quyền hay không sử dụng 
phương cách thoả đáng để giải quyết tranh chấp chủ quyền trong một thời 
gian dài.[16] 
Một khi Trung Quốc giữ nguyên thái độ 
cứng rắn, không hợp tác, trong khi tích cực “hành xử chủ quyền” ở biển 
đảo chiếm đoạt của Việt Nam bằng vũ lực từ năm 1974 cho đến nay, thì 
việc Việt Nam vẫn chỉ theo đuổi chủ trương đàm phán hoà bình và phản đối
 ngoại giao không thể là biện pháp tốt nhất. 
- Giải quyết bằng pháp luật quốc tế
Điều 1, Khoản 1, trong Hiến chương Liên Hiệp Quốc tuyên bố mục đích của tổ chức này: 
“Duy trì hòa bình và an ninh quốc tế, và
 để đạt được mục đích đó: tiến hành những biện pháp tập thể có hiệu quả 
nhằm ngăn ngừa và loại trừ các mối đe dọa hòa bình, nhằm trừng trị mọi 
hành vi xâm lược và phá hoại hòa bình khác, điều chỉnh hoặc giải quyết 
các tranh chấp quốc tế hoặc những tình huống có thể dẫn đến sự phá hoại 
hòa bình, bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với các nguyên tắc của 
công lý và pháp luật quốc tế;” 
Là cơ quan trực thuộc Liên hiệp quốc, 
Toà án Quốc tế có chức năng là khi được yêu cầu, dựa trên pháp luật quốc
 tế, đưa ý kiến tư vấn về pháp lý và đưa quyết định giải quyết tranh 
chấp, giảm thiểu nguy cơ xung đột quân sự, duy trì trật tự trên thế 
giới.[17] 
Trong hơn 100 năm qua, giải quyết tranh 
chấp trên biển hay trên đất liền bằng pháp luật quốc tế là phương cách 
được nhiều nước ở phương Tây và ở phương Đông thực hiện. 
Từ năm 1959 cho đến nay, riêng trong 
vùng Đông Nam Á, có ba trường hợp sử dụng pháp luật quốc tế: vụ kiện 
giữa Campuchia và Thái Lan về ngôi đền Preah Vihear, giữa Indonesia và 
Malaysia về hai đảo Pulau Ligitan và Pulau Sipadan, và giữa Malaysia và 
Singapore về đảo đá Pedra Branca, Middle Rocks và South Ledge. 
Trên cơ sở đã nêu về tầm mức quan trọng 
đối với thế giới trong tự do hàng hải trên Biển Đông, ngang qua khu vực 
Hoàng Sa, và về bằng chứng chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa, Việt Nam nên 
cùng lúc thực hiện hai bước sau: 
- Công khai kêu gọi Trung Quốc đưa tranh chấp Hoàng Sa ra Toà án Quốc tế để giải quyết. Trong trường hợp Trung Quốc từ chối hợp tác, Việt Nam tiến hành khởi kiện Trung Quốc về chủ quyền Hoàng Sa, theo đúng Điều 53 trong Quy chế Toà án Quốc tế [18]
- Tiến hành khởi kiện Trung Quốc ra Toà án Trọng tài Thường trực (PCA), theo Phụ lục VII của Công ước Luật Biển (UNCLOS) do các hoạt động không phù hợp với Công ước ở vùng biển Hoàng Sa-Trường Sa
Trong 30 năm gần đây, Trung Quốc đạt 
được nhiều thành tựu nổi bật để trở thành một trong ba nước lớn hàng đầu
 về kinh tế và quân sự.[19] 
Bên cạnh thành tựu to lớn của một nước 
là trách nhiệm không thể thiếu với cộng đồng thế giới, với Liên hiệp 
quốc, đặt biệt trong trường hợp Trung Quốc là một trong năm thành viên 
chính thức của Hội đồng Bảo an. 
Chủ trương “không đàm phán” về Hoàng Sa 
với Việt Nam, “Hoàng Sa không phải là khu vực tranh chấp”, “Trung Quốc 
có bằng chứng xác đáng cho chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa”, v.v. không còn
 chỗ đứng khi Hiến chương Liên hiệp quốc bị vi phạm nặng nề; nó không 
còn chỗ đứng khi Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản, v.v. công nhận Hoàng Sa là khu vực
 tranh chấp, và nhấn mạnh giá trị của tự do hàng hải trên Biển Đông.[20] 
Trong tổng số 23 cuộc tranh chấp lãnh 
thổ hay lãnh hải giữa Trung Quốc với các nước láng giềng từ năm 1949, 
Trung Quốc giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán 17 lần và sử dụng vũ
 lực 6 lần.[21] 
Trung Quốc có hai chọn lựa ngày nay: Hợp
 tác để cùng ra Toà án Quốc tế và Toà án Trọng tài Thường trực, hay đàm 
phán nghiêm túc để giải quyết, trước hết vấn đề chủ quyền Hoàng Sa, và 
kế đến, những vấn đề biển đảo khác. 
Chọn lựa trên giúp Trung Quốc chứng minh
 cụ thể với dư luận quốc tế là “Giấc mộng Trung Hoa” thật sự là một trỗi
 dậy hoà bình; nó đóng góp hữu ích vào nền thịnh vượng chung của thế 
giới; dù là nước mạnh, Trung Quốc tôn trọng pháp luật quốc tế. 
Bằng không, Trung Quốc càng lún sâu vào một cuộc phiêu lưu mà cái giá phải trả khó thể dự đoán được. 
Ngay sau chuyến đi bốn nước châu Âu giữa
 tháng 9/2014 để tìm hậu thuẫn cho phương cách giải quyết tranh chấp với
 Trung Quốc, lãnh đạo Philippines chia sẻ suy nghĩ riêng: 
“Nói cho cùng, nếu chúng tôi không bảo 
vệ quyền lợi của chúng tôi, thì chúng tôi sẽ mất nó bởi vì chúng tôi 
không nghĩ rằng một ai khác sẽ đứng lên để bảo vệ cái quyền lợi mà chúng
 tôi đã không bảo vệ được.”[22] 
Sau gần 20 năm đàm phán hoà bình với 
Trung Quốc nhưng không tiến triển, Philippines quyết định khởi kiện 
Trung Quốc ra Toà án Trọng tài Thường trực, theo Phụ lục VII của UNCLOS,
 vào đầu năm 2013. 
Với bờ biển dài hơn 3.200 km, với chứng 
cứ chủ quyền thuyết phục, Việt Nam là nước bị thiệt thòi lớn nhất, bị 
xâm phạm nhiều nhất, trong tham vọng Biển Đông của Trung Quốc. 
Sự leo thang của Trung Quốc trong thời 
gian qua khiến tình hình trở nên cực kỳ căng thẳng, phức tạp. Để đối 
phó, Việt Nam cần quyết tâm và hành động. 
Khi sử dụng pháp luật quốc tế để giải 
quyết tranh chấp với Trung Quốc, Việt Nam không chỉ bảo vệ quyền lợi đất
 nước mà còn góp phần gìn giữ hoà bình, an ninh của khu vực và xa hơn, 
thể hiện tinh thần trách nhiệm cao đối với lịch sử và thế hệ tương lai.
Thái Văn Cầu
_______________ 
Chú thích:
Từ Đặng Minh Thu, “Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”, 2007
Nguyễn Hồng Thao, “Luật quốc tế và chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa”, 2011
Tạ Văn Tài, “Chứng
 cứ Lịch sử và Khía cạnh Luật pháp về Chủ quyền của Việt Nam tại Hai 
Quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và Quyền Chủ quyền ở Vùng Biển Chung quanh”, 2014
Thái Văn Cầu, “Hai Nhà nước Việt Nam và Chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa”, 2013
[3] “TQ ‘không đàm phán về Hoàng Sa’”, 2011
Greg Torode, “Vietnam fails to bring China into Paracels talks”, 2011
[4] 
 Một số nghiên cứu của học giả phương Tây hay học giả Trung Quốc được 
đào tạo từ phương Tây có lập luận sai lệch về chủ quyền Hoàng Sa-Trường 
Sa :
Marwyn S. Samuels, “Contest for the South China Sea”, 1982
Daniel J. Dzurek, “Spratly Islands Dispute: Who’s on First”, 1996
Greg Austin, “China’s Ocean Frontier: International Law, Military Force and National Development”, 1998
Nong Hong, “UNCLOS and Ocean Dispute Settlement: Law and Politics in the South China Sea”, 2011
“Experts Recommend Construction of a Floating Airbase to Allow Fighter Cover in the South China Sea”, (tiếng Hoa), 2012
D. Collins, “China counters U.S. Asia-Pivot Strategy. Fortifies island military base”, 2012
[6] Trần Công Trục, “Trung Quốc xây cất ở Gạc Ma còn nguy hiểm hơn đặt giàn khoan 981”, 2014
Gregory Poling, “Beijing seeking to ‘change facts’ in South China Sea”, 2014
[7] U.S. Energy Information Administration, “South China Sea”, 2013
[8] Bonnie S. Glaser, “Armed Clash in the South China Sea”, 2013
“Xi Jinping and the Chinese dream”, 2013
“Giấc mộng Trung Hoa – tham vọng của Trung Quốc trỗi dậy”, 2014
[10] “Defense Budget by Country”, 2014
[11] Bộ Ngoại giao CHXHCNVN, “La Souverainete du Viet Nam sur les archipels Hoang Sa et Truong Sa”, 1979, tr. 55
Thái Văn Cầu, “Luật pháp Quốc tế và Chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa”, 2014
Lê Văn Cương, “Trung Quốc âm thầm tạo ra những ‘sự đã rồi’”, 2014
[16]
 Trong vụ kiện giữa Nicaragua và Honduras ở vùng Biển Caribbean, Toà án 
Quốc tế nhận định rằng sự liên tục khẳng định chủ quyền, phản đối ngoại 
giao của Nicaragua không tương xứng với phương cách hành xử chủ quyền 
của Honduras.
Khiếm khuyết này của Nicaragua là một trong những yếu tố khiến Toà án Quốc tế trao chủ quyền khu vực tranh chấp cho Honduras.
Toà án Quốc tế, “Territorial and Maritime Dispute between Nicaragua and Honduras in the Caribbean Sea (Nicaragua v. Honduras)”, 2007
Pieter Bekker & Ana Stanic, “The
 ICJ Awards Sovereignty over Four Caribbean Sea Islands to Honduras and 
Fixes a Single Maritime Boundary between Nicaragua and Honduras”, 2007
[17] “Hiến chương Liên hiệp quốc”, 1945
Nguyên văn tiếng Anh:
“Article 1
The Purposes of the United Nations are:
To maintain international peace and 
security, and to that end: to take effective collective measures for the
 prevention and removal of threats to the peace, and for the suppression
 of acts of aggression or other breaches of the peace, and to bring 
about by peaceful means, and in conformity with the principles of 
justice and international law, adjustment or settlement of international
 disputes or situations which might lead to a breach of the peace;”
“Charter of the United Nations”, 1945
[18] Điều 53 trong Quy chế Toà án Quốc tế:
 1. Bất cứ khi nào một trong các bên 
không trình diện trước Tòa án, hoặc không bảo vệ trường hợp của họ, bên 
kia có thể yêu cầu Tòa án ra quyết định theo hướng có lợi cho mình.
2. Trước khi thực hiện yêu cầu, Tòa án 
phải biết, không những là Toà án có thẩm quyền theo quy định ở các Điều 
36 và 37, mà còn là vụ kiện có đầy đủ cơ sở chứng cứ và pháp lý.
Nguyên văn tiếng Anh:
“Article 53 in Statute of the International Court of Justice:
 1. Whenever one of the parties does not appear before 
the Court, or fails to defend its case, the other party may call upon 
the Court to decide in favour of its claim.
 2. The Court must, before doing so, 
satisfy itself, not only that it has jurisdiction in accordance with 
Articles 36 and 37, but also that the claim is well founded in fact and 
law.”
“Keynote Address: Shinzo Abe”, 2014
“Thông cáo chung Việt Nam-Ấn Độ”, 2014
[21] M. Taylor Fravel, “Strong Borders, Secure Nation: Cooperation and Conflict in China’s Territorial Disputes”, 2008, tr. 46-47
—
Bản gốc của tác giả gửi tới.
 

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét