Người duy nhất đặt tên cho đường phố Sài Gòn trước năm 1975 và ý nghĩa của các tên đường
Nhưng thật là bất ngờ, bất ngờ đến kinh ngạc, khi qua tài liệu đính
kèm của tác giả Nguyễn Văn Luân, chúng ta được biết kiệt tác của lịch sử
này đã được hoàn thành bởi… một người. Người đó là ông Ngô Văn Phát,
Trưởng Phòng Họa Đồ thuộc Tòa Đô Chánh Sài Gòn.
Nhà văn Thuần Phong Ngô Văn Phát và việc đặt tên đường phố Sài Gòn
Trong những năm làm việc tại Tòa Đô Chánh Sài Gòn, tôi có dịp góp
phần trông coi việc xây dựng và tu bổ đường xá, lúc thì tại Khu Kiều Lộ
Sài Gòn Tây (Chợ Lớn) gồm 6 quận 5, 6, 7, 8, 10 và 11, lúc thì tại Khu
Kiều Lộ Sài Gòn Đông (Sài Gòn) gồm 5 quận 1, 2, 3, 4 và 9. Hàng ngày họp
với các ông cai lục lộ phụ trách từng khu vực, nghe báo cáo đường thì
ngập nước sau cơn mưa, đường thì có ổ gà, nhựa đường tróc hết trơ lớp đá
xanh đá đỏ nền đường, đường thì dân xây cất trên lộ giới tràn ra lề
đường, nên tôi gần như thuộc lòng tên hơn 300 con đường.
Qua bao nhiêu năm lịch sử của thành phố, hầu hết đều có tên Tây như:
- Boulevard Charner
- Boulevard Galliéni
- Boulevard Kitchener
- Boulevard Norodom
- …
Sau hiệp định Genève tháng 7 năm 1954 chính quyền Pháp bàn giao cho Chính Phủ Bảo Đại, với Thủ Tướng Ngô Đình Diệm.
Để đánh dấu việc giành độc lập từ tay người Pháp, Toà Đô Chánh Sài
Gòn được lệnh gấp rút thay thế toàn bộ tên đường từ tên Pháp qua tên
Việt trong khoảng thời gian ngắn nhất. Trong lịch sử của các thành phố
có bao nhiêu lần đổi tên hàng loạt toàn bộ các con đường như thế này? Có
lẽ vô cùng hiếm hoi.
Đại lộ Trần Hưng Đạo
Việc đối chiếu tên các danh nhân trong lịch sử 4000 năm để đặt tên
đường sao cho hợp lý không phải dễ. Chỉ nghĩ đơn thuần, khi dùng tên Vua
“Trần Nhân Tôn” và Tướng “Trần Hưng Đạo”, người làm dưới trướng của
Vua, để đặt tên cho 2 con đường thì đường nào to và quan trọng hơn? Câu
hỏi nhỏ như vậy còn thấy không đơn giản, huống chi cân nhắc cho ngần ấy
con đường trong một thời gian gấp rút thật không dễ.
Lúc bấy giờ công việc này được giao cho Ty Kỹ Thuật mà Phòng Hoạ Đồ
là phần hành trực tiếp. May mắn thay cho thành phố có được nhà văn Ngô
Văn Phát, bút hiệu Thuần Phong, có bằng Cán Sự Điền Điạ lúc ấy đang giữ
chức Trưởng Phòng Hoạ Đồ.
Thuần Phong Ngô Văn Phát
Năm 1956, sau hơn ba tháng nghiên cứu, ông đã đệ trình lên Hội Đồng
Đô Thành, và toàn bộ danh sách tên đường ấy đã được chấp thuận. Khi tôi
vô làm năm 1965 và hàng ngày lái xe đi công trường, đụng chạm với các
con đường mới, cảm nhận được sự uyên bác về lịch sử của ông. Nhìn những
tên đường trên họa đồ, khu nào thuộc trung tâm thành phố, khu nào thuộc
ngoại ô, đường nào tên gì và vị trí gắn bó với nhau, càng suy nghĩ càng
hiểu được cái dụng ý sâu xa của tác giả.
Các đường được đặt tên với sự suy nghĩ rất lớp lang mạch lạc với sự
cân nhắc đánh giá bao gồm cả công trạng từng anh hùng một lại phù hợp
với địa thế, và các dinh thự đã có sẵn từ trước. Tác giả đã cố gắng đem
cái nhìn vừa tổng quát lại vừa chi tiết, những khía cạnh vừa tình vừa
lý, đôi khi chen lẫn tính hài hước, vào việc đặt tên hiếm có này. Tôi
xin kể ra đây vài thí dụ, theo sự suy đoán riêng của mình, bởi vì ông có
nói ra đâu, nhưng tôi thấy rõ ràng là ông có ý ấy:
- Đầu tiên là những con đường mang những lý tưởng cao đẹp mà toàn dân hằng ao ước: Tự Do, Công Lý, Dân Chủ, Cộng Hoà, Thống Nhất. Những con đường hoặc công trường này đã nằm ở những vị trí thích hợp nhất.
- Đường đi ngang qua Bộ Y Tế thì có tên nào xứng hơn là Hồng Thập Tự.
Trụ sở Bộ Y Tế ở góc Hồng Thập Tự – Lê Văn Duyệt
(Nay là Nguyễn Thị Minh Khai – CMT8)
- Đường de Lattre de Tassigny chạy từ phi trường Tân Sơn Nhất đến bến Chương Dương đã được đổi tên là Công Lý, phải chăng vì đi ngang qua Pháp Đình Sài Gòn. Con đường dài và đẹp rất xứng đáng. Ba đường Tự Do, Công Lý và Thống Nhất giao kết với nhau nằm sát bên nhau bên cạnh dinh Độc Lập.
Tòa Án trên đường Công Lý
- Đại Lộ Nguyễn Huệ nằm giữa trung tâm Sài Gòn nối từ Toà Đô Chánh đến bến Bạch Đằng rất xứng đáng cho vị anh hùng đã dùng chiến thuật thần tốc phá tan hơn 20 vạn quân Thanh. Đại Lộ này cũng ngắn tương xứng với cuộc đời ngắn ngủi của ngài.
Toàn cảnh đại lộ Nguyễn Huệ năm 1969
- Những danh nhân có liên hệ với nhau thường được xếp gần nhau như Đại Lộ Nguyễn Thái Học với đường Cô Giang và đường Cô Bắc, cả ba là lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Hoặc đường Phan Thanh Giản với đường Phan Liêm và đường Phan Ngữ, Phan Liêm và Phan Ngữ là con, đã tiếp tục sự nghiệp chống Pháp sau khi Phan Thanh Giản tuẫn tiết.
- Những đại lộ dài nhất được đặt tên cho các anh hùng Trần Hưng Đạo, Trần Quốc Toản, Lê Lợi và Hai Bà Trưng. Mỗi đường rộng và dài tương xứng với công dựng nước giữ nước của các ngài.
- Đường mang tên Lê Lai, người chịu chê’t thay cho Lê Lợi thì nhỏ và ngắn hơn nằm cận kề với đại lộ Lê Lợi.
- Đường Khổng Tử và Trang Tử trong Chợ Lớn với đa số cư dân là người Hoa.
- Bờ sông Sài Gòn được chia ra ba đoạn, đặt cho các tên Bến Bạch Đằng, Bến Chương Dương, và Bến Hàm Tử, ghi nhớ những trận thuỷ chiến lẫy lừng trong lịch sử chống quân Mông Cổ, chống Nhà Nguyên của Hưng Đạo Đại Vương vào thế kỷ 13.
- Cụ Nguyễn Du, phải tìm đường nào đặt tên cho xứng? Tôi thấy con đường vừa dài vừa có nhiều biệt thự đẹp, với hai hàng cây rợp bóng quanh năm, lại đi ngang qua công viên đẹp nhất Sài Gòn, vườn Bờ Rô, và đi ngang qua Dinh Độc Lập, thì quá xứng đáng. Không có đường nào thích hợp hơn. Tuyệt! Vườn Bờ Rô cũng được đổi tên thành Vườn Tao Đàn làm cho đường Nguyễn Du càng thêm cao sang.
- Vua Lê Thánh Tôn, người lập ra Tao Đàn Nhị Thập Bát Tú, cũng cho mang tên một con đường ở địa thế rất quan trọng, đi ngang qua một công viên góc đường Tự Do, và đi trước mặt Toà Đô Chánh.
- Trường nữ Trung Học Gia Long lớn nhất Sài Gòn thì, (trớ trêu thay?), lại mang tên ông vua sáng lập nhà Nguyễn. Trường nữ mà lại mang tên nam giới! Có lẽ nhà văn Thuần Phong muốn làm một chút gì cho trường nữ Trung Học công lập lớn nhất thủ đô có thêm nữ tính, nên đã đặt tên hai đường song song nhau cặp kè hai bên trường bằng tên của hai nữ sĩ: Bà Huyện Thanh Quan và Đoàn Thị Điểm. Chùa Xá Lợi nằm trên đường Bà Huyện Thanh Quan thấy cũng nhẹ nhàng.
- Thẳng góc với hai đường Bà Huyện Thanh Quan và Đoàn Thị Điểm là
đường Hồ Xuân Hương. Ba nữ sĩ nằm bên cạnh nhau, thật là có lý, nhưng có
lý hơn nữa có lẽ là đường Hồ Xuân Hương đi ngang qua bệnh viện Da Liễu.
Tác giả những câu thơ “Vành ra ba góc da còn thiếu, Khép lại hai bên
thịt vẫn thừa” mà cho mang tên đường có bệnh viện Da Liễu có lẽ cũng
xứng hợp.
Ông Nhà Văn – Trưởng Phòng Họa Đồ quả là sâu sắc.
Rất tiếc là lúc vào làm việc thì Thuần Phong Ngô Văn Phát đã về hưu
nên tôi không được hân hạnh gặp mặt. Mãi sau này mới có dịp đọc tiểu sử
của ông, mới hết thắc mắc làm sao chỉ là một công chức giống như tôi mà
ông đã làm được việc quá xuất sắc và hi hữu này.
Cũng chuyện đặt tên đường
Vua Lê Thánh Tôn đã mở mang bờ cõi nước ta từ Quảng Nam, Quảng Ngãi
và Bình Định. Rồi sau đó, chúa Nguyễn Hoàng và con cháu đã vượt đèo Cù
Mông, đánh chiếm Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, vĩnh viễn
xóa sổ nước Chiêm Thành khỏi bản đồ thế giới. Rồi còn tiếp tục mang về
cho dân tộc cả một đồng bằng Nam Phần mênh mông bao la, từ Đồng Nai đến
Cà Mau, Rạch Giá, Hà Tiên, Phú Quốc…
Cũng phải kể luôn cả “Hoàng Triều Cương Thổ” (vùng đất mà thực dân
Pháp dành riêng cho các vua nhà Nguyễn) là vùng Cao nguyên Trung phần
trù phú màu mỡ hiện nay. Dĩ nhiên công cuộc mở mang bờ cõi này cũng bao
gồm cả các quần đảo Hoàng Sa và Truờng Sa nữa.
Nghĩa là hơn một nửa diện tích đất liền của Việt Nam hiện nay là do
dòng họ của Chúa Nguyễn Hoàng đã mang về cho dân tộc Việt Nam!
Riêng Chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần, là người đã có công rất lớn
trong công cuộc Nam Tiến của dân tộc Việt Nam. Đặc biệt là Chúa Hiền
Vương đã đóng góp rất nhiều công sức trong việc bình định và chinh phục
vùng đất Gia Định ngày xưa. Gia định ngày xưa bao gồm Biên Hòa, Long
Khánh, Bà Rịa, Vũng Tàu, Tây Ninh, Phước Long, Bình Long, Long An, Mỹ
Tho, Gia Định, Sài Gòn… bây giờ. Cho nên chính quyền năm 1956 đã lấy tên
của ông để đặt cho một trong hai con đường chính từ hướng Bắc dẫn vào
trung tâm Thành Phố Sài Gòn. (Sau năm 1975, tên đường Hiền Vương bị thay
bằng tên của Võ Thị Sáu – Đường Nguyễn Hoàng bị đổi thành Trần Phú…).
Nhắc thêm về giấc mộng… Tây Tiến chưa thành. Hai vị trung thần nhà
Nguyễn là Lê Văn Duyệt và Trương Minh Giảng đã mở mang bờ cõi nước ta
tới tận biên giới… Thái Lan bây giờ, đã thiết lập thêm một Trấn mới là
Trấn Tây Thành, (hai Trấn kia là Trấn Bắc Thành và Trấn Gia Định Thành).
Phải chăng chính vì vậy mà ngay từ khi vừa giành được chủ quyền từ tay
thực dân Pháp, hai con đường lớn từ trung tâm Sài Gòn hướng về Bà Quẹo
để sang thẳng đất Miên qua ngả Gò Dầu, đã được mang tên hai vị Anh Hùng
Tây Tiến nổi danh này. Đó là đường Trương Minh Giảng và đường Lê Văn
Duyệt. Phải chăng đó cũng như là một nhắc nhở cho các thế hệ mai sau về
một sứ mạng chưa thành, một “Mission unaccomplished”…
Tiểu sử nhà văn Ngô Văn Phát:
Nhà văn, nhà họa đồ Ngô Văn Phát, bút hiệu Thuần Phong, Tố Phang, Đồ Mơ, sinh ngày 16-10-1910 tại huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu.
Thuở nhỏ ông học ở Bạc Liêu, Sài Gòn, đậu bằng Thành Chung rồi nhập ngạch họa đồ ngành công chánh. Ông ham thích văn chương từ ngày còn ngồi trên ghế nhà trường, từng có thơ đăng trên Phụ Nữ Tân Văn, họa mười hai bài Thập Thủ Liên Hoàn của Thương Tân Thị… Có lúc ông dạy Việt Văn tại trường Pétrus ký Sài Gòn.
Năm 1957 ông có bài đăng trên bộ Tự điển Encyclopedia – Britannica ở Luân Đôn (Anh Quốc). Đó là chuyên đề Khảo cứu về thành phố Sài Gòn.
Năm 1964 chuyên đề Ca dao giảng luận in trên tạp chí Trường Viễn đông Bác cổ ở Paris (sau in thành sách ở Sài Gòn). Cùng năm này Trường Cao học Sorbonne (Paris), ông cũng có chuyên đề Nguyễn Du et la métrique populaire (Nguyễn Du với thể dân ca) trong bộ sách nhan đề: Mélanges sur Nguyen Du (Tạp luận về Nguyễn Du).
Những năm 70 ông được mời giảng môn Văn học dân gian tại Đại học Văn khoa, Sư phạm Huế và Cần Thơ.
Ông mất trong năm 1983 tại Sài Gòn.
Nguồn: Vũ Linh Châu và Nguyễn Văn Luân (Trithucvn.net và tongphuochiep.com)
Thì đâu riêng Sài gòn. Tại Hà nội chỉ riêng ông thị trưởng Trần Văn Lai sau khi lên làm thị trưởng đã thay toàn bộ tên tiếng Pháp các đường phố ở Hà nội thành tên đường phố như hiện nay, rất khoa học và được hậu thế noi theo. Chỉ có từ năm 1954 trở lại đây, người ta đã làm cho việc đặt tên đường rối tung lên thôi.
Trả lờiXóaTổng thống Ngô Đình Diệm vốn là quan thượng thư dưới triều vua Bảo Đại.
Trả lờiXóaĐối với triều Nguyễn,nhà Tây Sơn và đặc biệt là vua Quang Trung là kẻ thù số 1,không đội trời chung.
Vậy mà,tổng thống Ngô Đình Diệm vẫn chấp nhận đặt tên con đường lớn nhất,đẹp nhất Sài Gòn là Nguyễn Huệ thì đủ biết tinh thần dân tộc,tôn trọng công lao của anh hùng đã góp công cho đất nước lớn đến nhường nào.Vượt lên mọi sự hận thù,định kiến.
Liên tưởng đến kiến nghị của mấy "sử gia" kia mà muốn bệnh.
Bài viết rất hay
Trả lờiXóaDễ thương nhất và viễn kiến nhất là hòa giải quá khứ để con cháu chỉ thấy một giang sơn đoàn kết,thống nhất: nhà Nguyễn và nhà Tây Sơn: Nguyễn Huệ trang trong mà ngắn, Gia Long lùi sau một chút nhưng dài. Xung quanh hai Ngài quy tụ những tên tuổi từng kình địch nhau một thời: Minh Mạng, Tự Đức, Lê Văn Duyệt, Bùi Thị Xuân, Trần Quang Diệu, Nguyễn Huỳnh Đức, Võ Tánh, Ngô Tùng Châu...Hòa hợp, êm đềm biết mấy!
Trả lờiXóaCon cháu có thể ngậm ngùi khi nhớ về quá khứ máu xương của cha ông, nhưng không một chút lòng tỵ hiềm, thù hận.
Không những chỉ vua Quang Trung Nguyễn Huệ được đặt tên đường, mà hầu hết các danh tướng nhà Tây Sơn đều được đặt tên đườnng luôn; như Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân...
Trả lờiXóaQuá hay luôn. Đâu cần một đám Gà Sống Thiến Sót ngồi họp tới họp lui tốn tiền thuế của dân.
Trả lờiXóaDưới thời của cụ Ngô đình Diệm , khối lượng công việc lớn như vậy mà chỉ do 1 người làm một cách xuất sắc . Cũng khối lượng công việc ấy mà ở miền Bắc XHCN thì phải bao nhiêu người , mấy cấp ,viện nọ ,hội đồng kia ,mất rất nhiều thời gian , tiền của mà kết quả thì chắc chắn là còn có nhiều chỗ để phải đánh dấu ?
Trả lờiXóaĐâu cần một đám Gà Sống Thiến Sót ngồi họp tới họp lui tốn tiền thuế của dân.
Trả lờiXóa