VIỆT NAM: 
Cơ hội cuối cùng hay những bước đột phá cần thiết
Lê Xuân Khoa
19-06-2014
Ngay sau khi 
Trung Quốc gây ra sự cố giàn khoan Hải Dương Thạch Du (HD-981) tại vùng 
biển chủ quyền của Việt Nam, giới phân tích chính trị quốc tế đã cho 
thấy đây không nhất thiết là một hành động chiếm đoạt về kinh tế mà chủ 
yếu là một nước cờ chính trị của Bắc Kinh nhằm tạo tiền lệ cho những 
bước lấn chiếm khác trong kế hoạch kiểm soát toàn thể Biển Đông Nam Á. 
Đây vừa là một bước thăm dò vừa là một ngón đòn phủ đầu trước khi Hoa Kỳ
 có thể thật sự xoay trục sang Châu Á và tái khẳng định vai trò cường 
quốc Thái Bình Dương. Bước chiến thuật này đã đem lại cho Trung Quốc một
 thắng lợi ban đầu nhưng qua những phản ứng của Việt Nam và những nước 
liên quan thì hành động này là một tính toán khá mạo hiểm trong chiến 
lược “Giấc mơ Trung Quốc ”, một mục tiêu quốc gia được Chủ tịch Tập Cận 
Bình chính thức tuyên bố trước Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc ngày 
17.3. 2013 và định nghiã là “sự phục hưng vĩ đại của dân tộc Trung Hoa.”
 Mạo hiểm hay không, lãnh đạo mới của Trung Quốc cũng quyết tâm hành 
động vì cho rằng thời cơ đã đến.
Đã có nhiều tác giả Việt Nam và ngoại quốc viết về những mục tiêu trước mắt và lâu dài của Trung Quốc qua vụ giàn khoan HD-981, phản bác những luận điệu của lãnh đạo Bắc Kinh đòi hỏi chủ quyền trên 80 % Biển Đông Nam Á theo bản đồ đường chín đoạn do họ tự vẽ ra, bất chấp luật lệ quốc tế và Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982. Vì vậy, bài này sẽ không tham gia vào những đóng góp quan trọng của các học giả về cơ sở lịch sử và pháp lý của Việt Nam mà chỉ chú trọng vào một số biện pháp cụ thể cần làm ngay để triệt tiêu mưu đồ của Trung Quốc đang từng bước thực hiện mục tiêu sử dụng Việt Nam làm bàn đạp tiến xuống các quốc gia khác trong khu vực.
Tên khổng lồ tỉnh giấc
Lịch sử chính trị thường nhắc đến câu chuyện Hoàng đế Napoléon Bonaparte sau khi đọc bản dịch cuốn Tôn Tử Binh pháp
 do một linh mục Pháp sống ở bên Tàu đời nhà Thanh thực hiện, đã phát 
biểu một nhận xét thú vị: “Hãy để cho tên khổng lồ này ngủ yên, vì khi 
tỉnh giấc nó sẽ làm rung chuyển thế giới.” Thật ra thì từ thời xa xưa 
cho đến hết thời Mao Trạch Đông, Trung Quốc chỉ tự rung chuyển mình bằng
 những cuộc nội chiến (như thời Đông Chu liệt quốc) hay bị rung chuyển 
khi ngoại nhân (như Mông Cổ hay Mãn Thanh) chiếm đóng và cai trị, bị tám
 nước Tây phương (Bát quốc liên quân) trừng phạt đầu thế kỷ 20 và gần 
đây nhất là bị quân đội Nhật hoàng xâm lăng và hành hạ trong thời Đệ nhị
 Thế chiến. Công bằng mà nói thì Trung Quốc cũng có làm rung chuyển một 
số quốc gia láng giềng nhỏ bé như Cao Ly (Triều Tiên) và Việt Nam qua 
những cuộc chiến tranh xâm lược nhưng rốt cuộc đều bị đánh bại và phải 
chạy về nước. (Đáng chú ý là vị anh hùng Cao Ly đại thắng quân Nguyên 
lại là một “thuyền nhân” người Việt: Lý Long Tường, thái tử nhà Lý, chạy
 sang Cao Ly tị nạn sau khi Trần Thủ Độ diệt nhà Lý để xây dựng nhà 
Trần. Lý Long Tường đánh thắng quân Nguyên hai lần, được vua Cao Ly 
phong làm Hoa Sơn Tướng quân.)
Chỉ đến khi 
Đặng Tiểu Bình trở lại chính quyền năm 1978 Trung Quốc mới thực sự bắt 
đầu một thời kỳ cải cách và phát triển theo hướng ”chủ nghiã xã hội mang
 màu sắc Trung Quốc”. Đặng thi hành chủ nghĩa thực dụng về kinh tế, mở 
cửa làm ăn với các nước Tây phương với câu nói nổi tiếng: “Mèo đen hay 
mèo trắng không thành vấn đề miễn là nó bắt được chuột.” Nhưng quan 
trọng nhất trong mưu lược đối ngoại của Đặng Tiểu Bình là âm thầm xây 
dựng một nước Trung Hoa hùng mạnh bằng chính sách “thao quang dưỡng hối”
 (giấu cái sáng, nuôi cái tối) tức là giấu diếm nội lực, giả vờ yếu kém 
để chờ ngày vùng dậy làm bá chủ thiên hạ.
Chính sách ẩn
 mình chờ thời của Đặng Tiểu Bình nay đã đến hồi kết thúc. Chỉ trong ba 
thập kỷ, Trung Quốc từ một nước nghèo đói đã vươn lên thành một siêu 
cường kinh tế, vượt Nhật Bản để chiếm địa vị thứ nhì sau nước Mỹ, và 
cũng đang là chủ nợ lớn nhất của Mỹ với số tiền cho mượn trên 1300 tỉ 
đô-la. Thời Hồ Cẩm Đào làm Tổng Bí thư, Trung Quốc đã giàu nhất thế giới
 vì nhờ lao động rẻ nên đã trở thành công xưởng của tư bản quốc tế sản 
xuất hầu hết hàng tiêu thụ khắp các nước. Không giấu được sức mạnh tiền 
bạc nhưng Hồ Cẩm Đào vẫn tiếp tục lừa thế giới với khẩu hiệu khiêm tốn 
là “trỗi dậy hoà bình”. Từ 2012, khi Tập Cận Bình kế vị Hồ Cẩm Đào thì 
“Trỗi dậy hoà bình” được đổi thành “Giấc mơ Trung Quốc”, thể hiện rõ hơn
 chủ nghĩa dân tộc của một lãnh đạo nhiều quyền lực nhất, cùng một lúc 
nắm ba chức vụ Tổng Bí thư Đảng, Chủ tịch nước và Chủ tịch Quân ủy Trung
 ương. Lời tiên đoán của Napoleon nay được nghiệm đúng: tên “khổng lồ” 
đã tỉnh giấc và sẽ thật sự làm rung chuyển thế giới. Nhưng rung chuyển 
đến mức nào và sẽ bị rung chuyển ngược ra sao lại là chuyện khác.
Đặc điểm 
chung của các lãnh đạo cộng sản độc tài là “nói một đàng làm một nẻo” và
 kiên quyết phủ nhận những sự thật hiển nhiên. Tập Cận Bình còn hơn cả 
những người tiền nhiệm ở chỗ không giấu diếm thái độ tự tôn và ngang 
ngược về mặt đối ngoại dù vẫn luôn luôn dối trá. Đối với Tập, thế kỷ 21 
phải là thế kỷ của Trung Quốc vĩ đại, và thời điểm 2014 rất thuận lợi để
 cho Tập khẳng định quyết tâm thực hiện “Giấc mơ Trung Quốc” khởi sự từ 
Việt Nam, đối tượng quan trọng nhất nhưng lại dễ dàng nhất. Tập Cận Bình
 không thể bỏ lỡ cơ hội này dù mới đây Tập đã trơ tráo quả quyết rằng 
“Trung quốc không có cái gien xâm lược.”
Tại sao Việt Nam?
Một người 
Việt Nam bình thường nào (và tất cả những học sinh miền Nam trước 1975) 
cũng biết rõ là từ các triều đại phong kiến hơn hai nghìn năm trước đến 
thời đại cộng sản ngày nay, các lãnh đạo Trung Quốc luôn luôn tìm cách 
xâm chiếm đất nước và đồng hoá dân tộc Việt. Tất cả những quan hệ hoà 
bình, hữu nghị giữa hai nước đều chỉ là giả tạm và có lợi hơn cho Trung 
Quốc, tất cả mọi sự viện trợ to lớn của cộng sản Tàu cho cộng sản Việt 
trong cuộc chiến chống Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hoà đều là những điều 
kiện thuận lợi cho việc đẩy Việt Nam vào vòng lệ thuộc Trung Quốc sau 
chiến tranh. Ngoài ra, vì Mỹ là kẻ thù nguy hiểm nhất, cộng sản Tàu còn 
có lợi ích đặc biệt là “đánh Mỹ cho đến người Việt cuối cùng”.
Trở lại với 
câu hỏi “Tại sao cộng sản Trung Quốc (CSTQ) lại chọn cộng sản Việt Nam 
(CSVN) là nạn nhân đầu tiên trong mưu toan làm chủ Biển Đông Nam Á, kiểm
 soát các nước ASEAN và đẩy Mỹ ra khỏi khu vực Châu Á-Thái Bình Dương?”,
 tôi thấy có chín lý do dưới góc nhìn của Bắc Kinh:
1. Việt Nam 
có vị trí chiến lược then chốt, gần nhất và thuận tiện nhất để Trung 
Quốc có thể sử dụng vào mục tiêu khẳng định quyền làm chủ Biển Đông Nam 
Á, khai thác tài nguyên biển và kiểm soát toàn thể các nước trong khu 
vực.
2. Từ sau bản
 mật ước Thành Đô năm 1990, Việt Nam đã gần như lệ thuộc hoàn toàn vào 
Trung Quốc về kinh tế và chính trị. Việt Nam lại đang bị suy thoái về 
kinh tế và không có một đồng minh nào về chính trị và quân sự.
3. Cộng sản 
Việt Nam không thể rời bỏ chỗ dựa an toàn là Trung Quốc vì cần phải duy 
trì sự tồn tại của Đảng và chế độ với những đặc quyền đặc lợi quá lớn đã
 nắm giữ từ lâu trong khi phạm những tội ác quá nặng đối với nhân dân và
 đất nước.
4. Việt Nam 
khó khẳng định chủ quyền ở Hoàng Sa vì mắc kẹt với bức công hàm của TT 
Phạm Văn Đồng gửi TT Chu Ân Lai ngày 14/09/1958. Trên 50 năm qua, nhà 
nước Việt Nam né tránh vấn đề này nên có rất ít công trình nghiên cứu về
 pháp lý và lịch sử làm cơ sở tranh cãi so với số lượng nhiều gấp hàng 
chục lần của Trung Quốc.
5. Các nước 
ASEAN không đoàn kết và mỗi nước đều có nhiều lợi ích kinh tế riêng qua 
những quan hệ hợp tác song phương với Trung Quốc.
6. Hoa Kỳ 
đang phải đối phó với nhiều khó khăn ở trong nước và nhiều nơi trên thế 
giới nên chưa thể thật sự xoay trục sang Châu Á như mong muốn. Trung 
Quốc cần nắm lấy cơ hội trước khi Hoa Kỳ có thể cùng với Nhật xây dựng 
liên minh chiến lược với ASEAN.
7. Trung Quốc
 cũng có nhiều khó khăn nội bộ nhưng qua hành động thị oai với Việt Nam 
và xác định quyền khai thác tài nguyên trên biển Đông Nam Á, lãnh đạo 
Bắc Kinh có thể khích động chủ nghĩa dân tộc và gỉảm bớt sự bất mãn và 
chống đối của nhân dân.
8. Hoa Kỳ và 
Nhật Bản đang có những nỗ lực lôi cuốn Việt Nam ra khỏi quỹ đạo Trung 
Quốc giữa lúc tinh thần yêu nước và khát vọng dân chủ của nhân dân Việt 
Nam đang lên cao, khuyến khích khuynh hướng thoát Trung trong các đảng 
viên CSVN và hậu thuẫn mạnh mẽ cho khuynh hướng cải cách trong nội bộ 
lãnh đạo.
9. Nguy hiểm 
nhất là triển vọng thắng thế của khối yêu nước và cải cách chính trị ở 
Việt Nam, trong và ngoài Đảng. Nếu Việt Nam thoát Trung và trở thành một
 nước dân chủ, chế độ độc tài cộng sản ở Trung Quốc sẽ lung lay và chắc 
chắn phải sụp đổ trong một tương lai không xa.
Chín lý do 
trên đây khiến lãnh đạo Bắc Kinh phải ra tay sớm, bất chấp luật lệ quốc 
tế, Công ước LHQ về Luật Biển, và bộ Quy tắc về Ứng xử giữa các bên ở 
Biển Đông Nam Á (gọi tắt là COC) mà Trung Quốc đã hứa sẽ ký kết với các 
nước ASEAN tiếp theo bản Tuyên bố về Ứng xử (DOC) đã được các bên ký từ 
năm 2002.
Riêng đối với
 Việt Nam, Trung Quốc đã thẳng tay xé bỏ hai bản thoả thuận do lãnh đạo 
hai bên ký kết năm 2011 và 2013, cam kết giải quyết hoà bình các vấn đề 
khó khăn giữa hai nước. Tệ hơn nữa, Bắc Kinh đã ba lần bác bỏ lời yêu 
cầu khẩn cấp của Hà Nội về một cuộc gặp gỡ tại Bắc Kinh để giải quyết 
hoà bình vụ giàn khoan HD-981. Châm ngôn “16 chữ” và “4 tốt” thể hiện 
tình đồng chí bền chặt giữa hai đảng anh em được ca tụng hơn 20 năm bỗng
 nhiên bị quăng vào thùng rác. Hành động trở mặt tàn nhẫn và bất ngờ của
 Trung Quốc đối với Việt Nam chỉ có thể giải thích được bằng nguy cơ 
được nêu lên ở hai điểm số 8 và 9 trên đây.
Phản ứng phức tạp của Việt Nam
Nếu lãnh đạo 
Việt Nam đã phải bàng hoàng vì sự trở mặt trắng trợn của Bắc Kinh thì 
lãnh đạo Trung Quốc cũng bị bất ngờ trước khí thế yêu nước bùng dậy mãnh
 liệt từ phiá nhân dân Việt Nam, một dân tộc tưởng như đã bị chế độ cộng
 sản thuần hoá thành những con người khiếp nhược chỉ biết tuân lệnh vì 
đã được dạy dỗ rằng “chuyện gì cũng đã có Đảng và Nhà nước lo.”
Thật đáng 
tiếc là thế hệ lãnh đạo mới của Trung Quốc cậy mình quá giàu và quá mạnh
 nên không chịu tìm hiểu lịch sử và văn hoá Việt Nam để biết rằng truyền
 thống chống Trung Quốc xâm lược vốn nằm sẵn trong từng mạch máu, từng 
thớ thịt của dòng giống Việt từ ngày lập quốc. Bởi vậy, ngay trong hàng 
ngũ đảng viên CSVN, trừ một số đã nhiễm độc nặng vì địa vị và quyền lợi,
 những đảng viên yêu nước vẫn kiên quyết đấu tranh cho độc lập và chủ 
quyển của quê cha đất tổ. Họ cũng sáng suốt nhận ra những sai lầm tai 
hại của chủ nghĩa cộng sản nên đã dấn thân vào tiến trình chuyển hoá chế
 độ từ độc tài độc đảng sang dân chủ đa nguyên đa đảng. Nhưng dưới sự 
cai trị khắc nghiệt của chế độ toàn trị, trí thức và nhân dân không thể 
bày tỏ lòng yêu nước hay thái độ bất mãn đối với những hành động sai 
trái của chính quyền. Mọi hoạt động phản đối Trung Quốc xâm phạm chủ 
quyền hay đối xử tàn nhẫn với ngư dân Việt Nam đều bị nhà nước ngăn cấm 
và những người dám lên tiếng đều bị trù dập, bắt giữ và kết án nặng nề.
Nhưng sự chiụ
 đựng nào cũng có giới hạn và nhà cầm quyền cũng không thể che giấu mãi 
tội ác của Trung Quốc và thái độ hèn kém của mình. Rốt cuộc ngày phải 
đến đã đến. Ngày 1 tháng 5, 2014, Trung Quốc ngang nhiên đưa giàn khoan 
khổng lồ HD-981 cùng hơn 80 tàu vũ trang và máy bay hộ tống vào khu vực 
Hoàng Sa, hạ đặt giàn khoan này ngay trên Thềm lục địa và trong Vùng Đặc
 quyền Kinh tế của Việt Nam. Các tàu hộ tống giàn khoan đã tấn công các 
tàu công vụ và dân sự của Việt Nam gây hư hại nhiều tàu và một số người 
bị thương vong.
Hành động phi
 pháp và thái độ hống hách của cường quyền Bắc Kinh không chỉ làm bùng 
dậy lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam mà còn làm cho đám lãnh đạo thân
 Bắc Kinh phải lo sợ và đành lòng để cho nhân dân biểu tình chống Trung 
Quốc. Mặc dù cuộc biểu tình đầu tiên được phép ngày 11.5 đã diễn ra tốt 
đẹp vì nhân dân chỉ biểu dương lòng yêu nước chống quân xâm lược chứ 
không chống chính quyền, phe thân Trung Quốc đã tìm cách ngăn chặn cuộc 
biểu tình trong tuần kế tiếp mà họ biết chắc là số người xuống đường 
tham gia sẽ tăng lên gấp bội. Nhiều nguồn tin cho hay họ đã mướn côn đồ 
sách động công nhân biểu tình bạo động ở một số cơ xưởng do người ngoại 
quốc đầu tư, gây thiệt hại vật chất và thương tích cho một số người bị 
coi là dân Trung Quốc. Mượn cớ có bạo động, chính quyền đã có lý do 
chính đáng để ra lệnh cấm biểu tình dù ban tổ chức đã thông báo chủ 
trương bất bạo động. Điều này cho thấy nội bộ lãnh đạo Việt Nam vẫn còn 
chia rẽ nhưng phe cấp tiến đã bắt đầu tạo được hậu thuẫn của nhân dân 
yêu nước và khao khát dân chủ.
Tuy nhiên, 
tình hình mấy tuần qua đã trở nên phức tạp qua những phát biểu và cách 
hành xử lúng túng và mâu thuẫn của một số nhà lãnh đạo chính trị và quân
 sự Việt Nam trước hành động xâm lấn ngang ngược của Trung Quốc và những
 động thái phòng ngừa từ phía Mỹ và Nhật. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng 
thì không nói năng gì, chỉ một mực muốn sang Bắc Kinh cầu cứu Tập Cận 
Bình nhưng đã bị từ chối. Đại tướng Phùng Quang Thanh thì tại Hội nghị 
Shangri-La ngày 1 tháng Sáu đã có những lời phát biểu quá nhũn nhặn so 
với lời lẽ của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng mạnh mẽ kết án Trung Quốc tại 
hội nghị cao cấp ASEAN ngày 12 tháng 5, và trong cuộc gặp Tổng thống 
Philippines tại Manila một tuần sau đó. Gần đây nhất là quyết định (của 
Bộ Chính trị ?) trì hoãn chuyến đi Washington của Phó Thủ tướng kiêm Bộ 
trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh do lời mời của Ngoại trưởng John Kerry.
Chuyến đi 
thăm dò lãnh đạo Hà Nội của Ủy viên Quốc vụ Trung Quốc Dương Khiết Trì 
ngày 18/6 lại cho thấy có ba sự kiện đáng chú ý:
1. Dù chưa có
 thông báo chính thức của Bộ Ngoại giao, các nguồn tin trong nước và 
ngoại quốc đều cho hay là cuộc đối thoại Dương Khiết Trì-Phạm Bình Minh 
bị bế tắc vì lập trường hai bên không thay đổi. Các thông tín viên của 
Reuters nhận xét không có treo cờ hai quốc gia bên ngoài toà nhà họp như
 thông lệ mỗi khi có khách quan trọng đến thăm và cũng không có tấm hình
 nào cho thấy hai bên với vẻ mặt tươi cười. Trang tin mang tên Thủ tướng
 Nguyễn Tấn Dũng còn đăng một tấm hình
 cho thấy khi bắt tay nhau, Phạm Bình Minh nhìn thẳng vào mặt người đối 
diện trong khi Dương Khiết Trì thì nhìn xuống. Người viết blog nhận xét 
ông Minh có ánh mắt “rực lửa”.
2. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố
 hành động của Trung Quốc đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt 
Nam, vi phạm những thỏa thuận giữa lãnh đạo cấp cao hai nước, vi phạm 
luật pháp quốc tế, Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982, Tuyên 
bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC); đe dọa hòa bình, ổn định,
 an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trong khu vực; gây bất bình và 
làm tổn thương tình cảm của nhân dân Việt Nam, tác động tiêu cực đến 
quan hệ hợp tác giữa hai Đảng, hai nước; yêu cầu Trung Quốc rút giàn 
khoan và tàu ra khỏi vùng biển của Việt Nam; cùng đàm phán giải quyết 
các tranh chấp bất đồng giữa hai nước bằng các biện pháp hòa bình, phù 
hợp luật pháp quốc tế và nhận thức chung giữa Lãnh đạo cấp cao hai nước…
 Việt Nam kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền của mình bằng các biện 
pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế.
3. Một sự 
kiện khác rất bất ngờ là quan điểm yêu nước vững chắc của Tổng Bí thư 
Nguyễn Phú Trọng trong cuộc tiếp kiến Dương Khiết Trì. Bản tin VNTTX ngày 18/6
 dẫn lời của ông Trọng: “Tổng Bí thư nhấn mạnh tính nghiêm trọng và tác 
động rất tiêu cực của việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương-981 
(Haiyang Shiyou-981) tại vùng biển của Việt Nam từ đầu tháng Năm đến nay
 đối với nhân dân Việt Nam, cục diện quan hệ Việt-Trung và tình hình khu
 vực. Tổng Bí thư khẳng định lập trường về chủ quyền của Việt Nam đối 
với các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và trên Biển Đông là không thay đổi
 và không thể thay đổi; đề nghị khẩn trương trao đổi để có các giải pháp
 sớm ổn định tình hình… trên cơ sở các thỏa thuận giữa lãnh đạo cấp cao 
hai nước và luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật 
biển 1982.”
Dù sao, thái 
độ lúng túng và mâu thuẫn của lãnh đạo Việt Nam vẫn tồn tại, cho thấy 
phe bảo thủ thân Trung Quốc, dù đã bị Bắc Kinh không thèm đếm xỉa tới 
nữa, vẫn không dám nghĩ đến việc thoát Trung vì ngoài Trung Quốc ra, họ 
không có một chỗ dựa nào khác. Có lẽ họ không còn chiếm đa số trong Bộ 
Chính trị nhưng họ đang tranh thủ lôi cuốn những người “do dự” mà phe 
yêu nước cấp tiến cũng đang cố gắng thuyết phục. Dù khinh miệt đám tay 
chân ở Hà Nội, lãnh đạo Bắc Kinh không bỏ qua cơ hội làm suy yếu phe cấp
 tiến đang gia tăng hợp tác với Mỹ. Chắc chắn đàng sau những cuộc vận 
động thành phần còn do dự đều có bóng dáng của Đại sứ Trung Quốc Hồng 
Tiểu Dũng và các thuộc viên. Mặc dù mục tiêu cuối cùng của các phe đang 
chống đối nhau trong Đảng CSVN là chiếm được ưu thế trong Đại hội 12 sẽ 
diễn ra năm 2016, Đảng và Nhà nước vẫn phải có những quyết định liên 
quan đến chính sách đối nội và đối ngoại từ nay cho đến ngày Đại hội. 
Liệu có thay đổi gì không? Chúng ta có thể ngờ rằng tình trạng “trống 
đánh xuôi, kèn thổi ngược” và “nói một đàng, làm một nẻo” sẽ tiếp tục 
được duy trì như một đồng thuận không chính thức trong nội bộ lãnh đạo. 
Trong khi đó, bọn bá quyền Bắc Kinh vẫn tiếp tục vừa đánh lừa dư luận 
vừa lấn tới, từng bước một, nhưng mau hơn trước.
Liệu sự thống
 nhất bất ngờ giữa hai ông Tổng Bí thư và Thủ tướng về lập trường đối 
với Trung Quốc qua vụ giàn khoan HD-981 có làm cho những lãnh đạo thân 
Tàu trong Bộ Chính trị cũng sẽ bớt cản đường trên con đường thoát Trung?
Tổng lực dân tộc và những hành động đột phá 
Những nhận 
định ở phần đầu bài này đã cho thấy năm 2014 là thời điểm thuận lợi nhất
 cho Trung Quốc tiến hành kế hoạch thống lĩnh Biển Đông Nam Á và trục 
xuất Hoa Kỳ khỏi khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Trong hai mươi năm qua,
 CSVN đã bỏ lỡ bao nhiêu cơ hội thoát Trung và cải cách chính trị để đất
 nước có thể phát triển không thua kém Đại Hàn, Đài Loan hay Singapore. 
Trước sự trở mặt thình lình của Bắc Kinh, Đảng và Nhà nước Việt Nam 
không kịp chuẩn bị cho việc bảo vệ chủ quyền trên biển để từ đó sẽ mất 
luôn khả năng bảo vệ độc lập và toàn vẹn chủ quyền của đất nước. Trước 
tình thế gần như tuyệt vọng đó, Việt Nam chỉ có hi vọng được cứu thoát 
nếu có một tổng lực dân tộc do sự kết hợp của cả ba thành phần : chính 
quyền, nhân dân trong nước và cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Nhưng 
tổng lực dân tộc này chỉ có thể thành tựu nếu mỗi thành phần đều có 
những hành động đột phá hướng về hai mục tiêu chung: bảo vệ tổ quốc và 
thực thi dân chủ.
1. Chính quyền
Đây là thành 
phần chủ yếu vì đang nắm quyền quyết định vận mệnh dân tộc về mặt đối 
ngoại, nhưng cũng là thành phần suy nhược, nội bộ chia rẽ và không được 
nhân dân tin cậy. Ai cũng đã thấy rõ là lãnh đạo Đảng và Nhà nước đang 
chia làm hai: một phe do Nguyễn Phú Trọng cầm đầu hoàn toàn dựa vào 
Trung Quốc (thân Tàu) để bảo vệ chế độ độc tài và quyền lợi nhóm, và một
 phe do Nguyễn Tấn Dũng lãnh đạo chủ trương phải thoát Trung và chuyển 
hoá thể chế từ độc tài sang dân chủ (thân Mỹ). Trước nguy cơ mất nước, 
dù có nghi ngờ cả hai phe “vì họ đều là cộng sản”, nhân dân trong nước 
và cộng đồng hải ngoại vẫn không có lựa chọn nào khác hơn là chống phe 
thân Tàu và ủng hộ phe thân Mỹ. Nhưng để có thể được toàn dân hậu thuẫn 
và tạo thành tổng lực dân tộc, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng lần này phải 
thật sự chứng tỏ lời nói đi đôi với việc làm. Những lời chỉ trích Trung 
Quốc cũa ông Dũng từ hơn một năm nay đã trở nên mạnh mẽ đến mức độ dứt 
khoát và những phát biểu của ông trong thông điệp đầu năm 2014 gửi nhân dân trong nước đã bộc lộ rõ rệt ý muốn “đổi
 mới thể chế và phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân”, nhưng có 
thể ông đã không thi hành được ý muốn vì lực cản của đám bảo thủ thân 
Tàu còn quá mạnh. Tuy nhiên, nếu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã chọn 
thái độ dứt khoát và ở trong một tình thế không thể lùi được nữa thì ông
 phải có ngay một số hành động đột phá, chẳng hạn:
a. Thành lập 
ngay một Hội đồng Tư vấn về quan hệ Việt-Trung gồm các trí thức và 
chuyên gia độc lập trong và ngoài nước. Hội đồng này sẽ làm việc với 
những Ban Đặc nhiệm (Task Force) về lịch sử, pháp lý, và quan hệ quốc tế
 của chính phủ để đề xuất những chính sách và biện pháp đối phó với 
những luận điệu xuyên tạc, thủ đoạn hãm hại và hành động uy hiếp của 
Trung Quốc. Các thành viên trong hội đồng tư vấn và ban đặc nhiệm sẽ 
thường xuyên tham khảo với các học giả và chiến lược gia quốc tế có 
thiện cảm với Việt Nam và chống chính sách bành trướng của Trung Quốc 
(như Carl Thayer, Jonathan London, Ernest Bower, David Brown). Một hồ sơ
 tội ác và thủ đoạn nham hiểm của Trung Quốc đối với Việt Nam cần được 
thiết lập để sẵn sàng có bằng chứng tố cáo trước dư luận quốc tế.
b. Gửi một 
văn thư kêu gọi lãnh đạo các cấp trung ương và địa phương thức tỉnh 
trước thái độ tráo trở ngạo mạn của Bắc Kinh, xé bỏ các hiệp ước hoà 
bình hữu nghị giữa hai nước và quyết tâm biến Việt Nam thành một nước 
chư hầu. Văn thư cũng kêu gọi toàn thể các đảng viên đang hoạt động hay 
đã hồi hưu, đặc biệt trong quân đội và công an, hãy thực thi truyền 
thống oai hùng bảo vệ tổ quốc và nhân dân chống quân xâm lược, và sau 
hết kêu gọi toàn dân đoàn kết để hợp thành sức mạnh dân tộc cứu nguy đất
 nước. Thế giới văn minh ở thế kỷ 21 sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam vì không 
một quốc gia nào chịu sự lãnh đạo của một nước cộng sản độc tài như 
Trung Quốc. Đây có thể là một bản “hịch” lịch sử.
c. Thực hiện 
tiến trình dân chủ hoá bằng việc ban hành các quyền tự do cơ bản của con
 người như tự do báo chí, tự do lập hội, tự do tôn giáo…, thả hết những 
tù nhân chính trị và tù nhân lương tâm bị bắt giữ vì bất đồng chính 
kiến, đền bù công bằng cho những dân oan bị cưỡng chế đất đai, những 
công nhân bị bóc lột và đối xử tàn tệ. Về mặt thể chế thì bãi bỏ ngay 
điều 4 Hiến pháp và thành lập hội đồng lập hiến để soạn thảo một bản 
Hiến pháp mới trên cơ sở tam quyền phân lập, một quốc hội thực sự do dân
 bầu và một cơ chế chính trị đa nguyên đa đảng.
Những bước 
đột phá này nếu được thi hành chắc chắn sẽ được toàn dân nhiệt liệt hoan
 nghênh, mọi thế lực phản động bán nước và quan thày Bắc Kinh sẽ phải 
chùn bước, và thế giới dân chủ, văn minh sẽ mở rộng vòng tay đón nhận và
 giúp đỡ Việt Nam phát triển. Chỉ trong một vài thập kỷ, Việt Nam sẽ trở
 thành một quốc gia giàu mạnh trong khu vực.
2. Nhân dân trong nước 
Thành phần 
này tuy không có thực quyền và đã bị áp chế lâu ngày đã bỗng nhỉên bừng 
tỉnh vì hành động ức hiếp quá đáng của Trung Quốc, đồng thời cũng vì sức
 chịu đựng chế độ độc tài tham nhũng đã lên đến mức căng thẳng nhất. 
Trong thời gian chưa đầy một năm, sau những kiến nghị và thư ngỏ đầy 
thiện chí của nhân sĩ trí thức bị chính quyền vứt bỏ, các nhóm công dân 
đã liên tiếp theo nhau ra đời không cần xin phép – nay đã lên tới gần ba
 chục tổ chức – tất cả đều tranh đấu bất bạo động cho nhân quyền và dân 
chủ. Một xã hội dân sự đã thật sự thành hình mặc dù vẫn thường xuyên bị 
hạn chế, đe doạ và một số đã bị bắt giữ. Bất chấp lực lượng an ninh, 
những hoạt động của xã hội dân sự vẫn tiếp tục dưới nhiều hình thức: 
diễn đàn điện tử, báo mạng, toạ đàm và hội thảo có chủ đề, thư yêu cầu 
chính phủ kiện Trung Quốc, thư kêu gọi toàn thể các đảng viên đứng chung
 với nhân dân, trực tiếp vận động và hội họp với các tổ chức quốc tế và 
các cơ quan đại diện chính phủ nước ngoài ở Việt Nam, thậm chí đã có thể
 trực tiếp vận động với Quốc hội và Bộ Ngoại giao ở Hoa Kỳ, Lỉên minh 
Châu Âu và Hôi đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, kể cả đích thân tham gia 
những cuộc hội thảo của người Việt ở nước ngoài hoặc trao đổi qua màn 
hình trực tuyến, v.v.
Dù sao, những
 tổ chức công dân tự phát ở Việt Nam còn quá mới và quá nhỏ. Thực tế là 
không có một sự thay đổi chính quyền hay thể chế nào có thể diễn ra mà 
không do sự tranh đấu của một tổ chức quần chúng lớn mạnh như Công đoàn 
Đoàn kết (Solidarnosc) ở Ba Lan hay một đảng chính trị đối lập có uy tín
 như Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD) ở Myanmar. Việt Nam vì bị 
cộng sản kìm kẹp quá lâu đã không có được những tổ chức công dân hay 
đảng phái đối lập và những lãnh tụ nổi bật như Lech Walesa hay Aun Sang 
Suu Kyi. Vì vậy cần phải có sự xuất hiện của ít nhất một tổ chức đủ lớn 
và đủ khả năng lãnh đạo quần chúng tranh đấu cho lợi ích của quốc gia. 
Ba tháng trước đây, tác giả Nguyễn Vũ Bình có một bài viết rất đáng chú ý
 về sự lớn mạnh của Phong trào Dân chủ trong mấy năm qua nhưng vẫn chỉ 
là “dấu hiệu cho một sự chuyển đổi cơ bản và toàn diện.”
Trong khi chờ
 đợi và trước nhu cầu cấp bách của tình thế, các tổ chức công dân riêng 
rẽ hiện nay cần phải kết hợp với nhau thành một liên minh bình đẳng để 
phối trí các hoạt động có mục tiêu chung và hỗ trợ lẫn nhau. Như tôi đã 
đề nghị sơ khởi trong bài “Khúc ngoặt lịch sử”
 (boxitvn, ngày 14/5/2014): “Các nhóm trong Liên minh này đều độc lập và
 bình đẳng, hợp tác với nhau trên cơ sở mẫu số chung, đại đồng tiểu dị. 
Đại diện các nhóm sẽ bầu ra một Hội đồng Điều hành của Liên minh theo lề
 lối dân chủ, căn cứ trên những điều kiện thích hợp, như hiểu biết, kinh
 nghiệm, khả năng tổ chức, giao thiệp, v.v. Cũng cần có một bản nội quy 
ấn định rõ sứ mệnh và cấu trúc của Liên minh, vai trò và trách nhiệm của
 các nhóm thành viên, nhất là thể thức làm việc cho có hiệu quả và ngăn 
ngừa được sự lạm dụng quyền lực của một cá nhân hay phe nhóm nào… Như 
vậy dân tộc mới có đủ sức mạnh bảo vệ độc lập và chủ quyền đất nước đồng
 thời hậu thuẫn cho sự chuyển đổi thể chế từ độc tài toàn trị sang dân 
chủ đa nguyên đa đảng một cách trật tự, ôn hoà.” Đây chỉ là sự gợi ý để 
cho các nhà lãnh đạo xã hội dân sự ở trong nước xem xét và tìm cách thực
 hiện thích hợp.
Ngày 5 tháng 6
 vừa qua, đã có 16 tổ chức xã hội dân sự và tôn giáo lần đầu tiên ngồi 
lại với nhau tại chùa Liên Trì ở Saigon để thảo luận về sự phát triển 
XHDS, đòi hỏi chính quyền thực thi những quyền tự do căn bản, và nhấn 
mạnh vào quyền thành lập công đoàn độc lập. Bốn ngày sau, Liên đoàn Lao 
động Việt Tự do, gọi tắt là Lao Động Việt (LĐV) ra tuyên cáo xác nhận 
tham gia cộng đồng xã hội dân sự ở Việt Nam để bảo vệ những quyền lợi 
chính đáng của người lao động. Đó là những bước đầu tích cực tiến đến sự
 ra đời của một loại hình chính thức liên kết các tổ chức dân sự, có 
lãnh đạo và sinh hoạt dân chủ. Điều đáng lo ngại là giữa các tổ chức vẫn
 có thể có những trở ngại cho sự phối trí và hợp tác, và điều đó, nếu 
tồn tại, sẽ là một đại bất hạnh cho dân tộc. Mong rằng các nhà lãnh đạo 
xã hội dân sự ở trong nước có đủ sự sáng suốt, tinh thần trách nhiệm và ý
 chí vượt qua mọi trở lực để tạo được sức mạnh toàn dân, điều kiện cần 
thiết để gìn giữ đất nước, thực hiện tiến trình dân chủ và phát triển.
Vai trò của 
trí thức đặc biệt quan trọng trong việc đối thoại với chính quyền, vận 
động các đại sứ quán và cơ quan quốc tế (gồm cả giới truyền thông) có 
đại diện ở Việt Nam, giúp thành lập Liên minh các tổ chức XHDS và giúp 
thảo kế hoạch và chương trình hoạt động của liên minh nhằm đẩy mạnh 
những cải cách về chính trị, kinh tế, giáo dục và xã hội. Trí thức cấp 
tiến trong hay ngoài Đảng cũng sẽ rất đắc lực trong việc cung cấp thông 
tin, vận động trí thức và nhân dân Trung Quốc nhận ra chính sách sai lầm
 và tham vọng lỗi thời của các lãnh đạo Đảng CS đe dọa hoà bình và ổn 
định trong khu vực, nhất là phá hoại tình thân thiết tự lâu đời giữa hai
 dân tộc.
Nỗ lực đoàn 
kết, hợp tác trong tinh thần dân chủ để phục vụ lợi ích chung, bảo đảm 
lâu dài nền độc lập, toàn vẹn chủ quyền và phát triển bền vững cho đất 
nước, đó là bước đột phá cần thiết của trí thức và nhân dân trong nước, 
tự giải thoát ra khỏi mọi áp bức của chế độ cộng sản độc tài, mọi thành 
kiến nghi kỵ, và giành lại đầy đủ quyền công dân của một nước văn minh, 
dân chủ.
3. Cộng đồng người Việt hải ngoại 
Kiều dân hay 
công dân ngoại quốc gốc Việt đều được kể là thành phần của cộng đồng 
người Việt Nam ở nước ngoài, nói gọn là người Việt hải ngoại. Dù ở xa 
quê hương hay sinh trưởng ở nước ngoài, hầu hết đều vẫn gắn bó tình cảm 
với nguồn gốc của mình ở những mức độ khác nhau. Tổng số người Việt hải 
ngoại tính đến nay khoảng trên 4 triệu người, riêng ở Hoa Kỳ có khoảng 2
 triệu. Bài này không đi vào chi tiết về lịch sử và đời sống của người 
Việt hải ngoại mà chỉ tập trung vào vai trò cần thiết và thích hợp của 
cộng đồng này, đặc biệt là ở Mỹ, đối với tình hình chính trị ở Việt Nam 
và các quan hệ Việt-Mỹ-Trung.
Nói chung, 
quan điểm chính trị của Việt kiều ở Nga và các nước Đông Âu trước đây 
đối với Việt Nam khác xa nếu không muốn nói là đối nghịch với khối người
 Việt tị nạn ở những nước không cộng sản từ 1975 cho đến khi chế độ cộng
 sản ở các nước Đông Âu theo nhau sụp đổ trong năm 1989. Kể từ đó, quan 
điểm của những Việt kiều ở những nước cựu cộng sản đã bắt đầu thay đổi 
và cùng với các cơ hội giao lưu gia tăng từ đó đến nay, những suy nghĩ 
về tình hình đất nước và nhu cầu dân chủ hoá chế độ đã gần như đồng nhất
 trong đại khối người Việt hải ngoại.
Từ năm 2010, tôi đã nêu vấn đề hiểm hoạ Trung Quốc và đề cập vai trò của người Việt hải ngoại trong hai bài viết, “Người Việt hải ngoại làm được gì trước hiểm hoạ Trung Quốc” (talawas, 01/03/2010) và “Trước hiểm họa Trung Quốc: Kế hoạch hành động của người Việt hải ngoại”
 (talawas, 02/07/2010). Như vậy đây là lần thứ ba tôi trở lại vấn đề này
 nhưng có những nhận định phù hợp với những biến chuyển mới của tình 
hình, đặc biệt khai triển thêm hai phần về vai trò và những bước đột phá
 cần thiết của chính quyền cũng như của xã hội dân sự. Vì kế hoạch hành 
động của người Việt ở nước ngoài đã được trình bày khá đầy đủ trong bài 
viết ngày 02/07/2010 nên ở đây tôi chỉ nhấn mạnh những điểm chính, nhất 
là vai trò hỗ trợ của cộng đồng hải ngoại, một quan điểm đã được nhắc 
đến trong bài viết ngày 01/03/2010 nêu trên và xác nhận rõ hơn trong bài
 “Thư gửi bạn bè trong nước…”
 (boxitvn, 05/03/2013) rằng “việc thay đổi tình hình chính trị ở Việt 
Nam là việc làm của người trong nước, còn người ở bên ngoài chỉ có thể 
đóng vai trò hỗ trợ.”
Những điểm chính được tóm tắt (với đôi chút cập nhật) là:
* Trước hiểm 
họa Trung Quốc và tình thế cấp bách hiện thời, cần ủng hộ những lãnh đạo
 thật lòng bảo vệ độc lập và toàn vẹn chủ quyền của Việt Nam. Nếu ngày 
nay, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng không những chỉ khẳng định quyết tâm ấy 
mà còn chủ trương dân chủ hoá chế độ thì người Việt hải ngoại càng cần 
phải hợp tác với các tổ chức xã hội dân sự trong nước hậu thuẫn cho ông 
Dũng đánh bại phe thân Tàu độc tài toàn trị. Một khi đã thoát Trung và 
thể chế dân chủ đã có cơ sở thì những tội lỗi và sai lầm cuả chế độ cộng
 sản sẽ được xử lý một cách công bằng, nhân đạo.
* Trí thức và
 chuyên gia hải ngoại sẽ cùng với các trí thức chuyên gia yêu nước và 
cấp tiến ở trong nước đóng góp vào việc giúp chính quyền giải quyết các 
vấn đề khó khăn về đối nội và đối ngoại, thiết lập các dự án cải cách để
 có thể ổn định được tình hình chính trị, kinh tế và xã hội, giúp đất 
nước mau chóng trở thành một quốc gia dân chủ và phát triển. Trong nhiều
 năm qua, trí thức, văn nghệ sĩ, nhà báo, sinh viên và các giới trong và
 ngoài nước đã có nhiều cơ hội giao lưu, hợp tác, tạo thành một nguồn 
nhân lực và tài nguyên quan trọng với tiềm năng rất phong phú, sẵn sàng 
được huy động và sử dụng khi có cơ hội và điều kiện thuận lợi. Các tổ 
chức phi chính phủ từ bên ngoài với những chương trình y tế, giáo dục và
 nhân đạo cũng đã tạo được nhiều hạt giống cho sự nảy sinh và phát triển
 xã hội dân sự.
* Cộng đồng 
người Việt hải ngoại có nhiều điều kiện hơn người trong nước trong việc 
tiếp cận các cơ quan chính quyền, quốc hội, các đại sứ quán và tổ chức 
quốc tế để vận động cho các chính sách có lợi cho Việt Nam trong việc 
đối phó với Trung Quốc và thực hiện các chương trình phát triển kinh tế,
 xã hội theo chiều hướng dân chủ. Các học giả người Việt ở nước ngoài 
cũng có nhiều dịp tham gia hội họp và hợp tác với các viện nghiên cứu về
 Việt Nam, các tổ chức tranh đấu cho quyền con người, các hiệp hội công 
dân gốc Châu Á-Thái Bình Dương để cùng vận động cho các chương trình, 
các giải pháp đem lại hoà bình, hợp tác, và phát triển cho các nước 
trong khu vực.
Việc phân 
định vai trò của chính phủ, nhân dân và cộng đồng hải ngoại như trên 
không nhất thiết chỉ thuộc về mỗi thành phần vì trên thực tế có nhiều 
việc nếu làm chung thì sẽ có hiệu quả hơn. Vấn đề chính là chính phủ – ở
 đây là chính phủ Nguyễn Tấn Dũng – có đủ quyết tâm thoát ra khỏi quỹ 
đạo Trung Quốc và thực thi dân chủ hay không. Tôi biết có nhiều nhân sĩ,
 trí thức ở trong nước trước đây chống ông nay sẵn sàng giúp ông thay 
đổi tình thế vì sự tồn vong của đất nước. Đây là một nhiệm vụ lịch sử 
với muôn vàn khó khăn trước mắt. Trong bài “Việt Nam sẽ ra sao sau bài diễn văn Shangri-La”
 (boxitvn, 19/06/2013), tôi kết luận bằng một lời cầu nguyện: “Cầu Trời 
khấn Phật cho ông Nguyễn Tấn Dũng trở thành một Gorbachev Việt Nam”. 
Nhưng như ngạn ngữ Tây phương đã nói “Hãy tự giúp mình trước thì Trời sẽ
 giúp ta”, nếu ông Dũng tự giúp ông làm nhiệm vụ lịch sử thì ngoài sự 
phù hộ của Trời, ông còn có hậu thuẫn của hơn 90 triệu người Việt Nam ở 
trong và ngoài nước, cộng với sự hỗ trợ tận tình của bạn bè quốc tế. Nếu
 chẳng may vì lý do nào đó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thất bại, hay quay 
lưng lại với nhân dân, thì tình huống đó sẽ được Trời và nhân dân xử lý.
Carpe diem! Hãy nắm lấy thời cơ đang có trong tầm tay. Vì đó cũng là cơ hội cuối cùng.
California, 19 tháng Sáu 2014
——–
Tác giả Lê Xuân Khoa nguyên là Chủ tịch Trung tâm Tác vụ Đông Nam Á (SEARAC) và Giáo sư thỉnh giảng Đại học Johns Hopkins, USA.
Nguồn: Quê Choa.
 

- Cơ hội thì có, nhưng sẽ không phải cuối cùng. Lý do: Với bản chất thâm độc và dã tâm xâm lược của Trung Quốc thì "cơ hội" sẽ luôn có. Hôm nay một dàn khoan, ngày mai 2,3 cái nữa...
Trả lờiXóa- Đột phá thì không! Sẽ không có đột phá nào hết, cho dù có đến cả trăm cơ hội nữa!, vì mọi việc đã an bài từ lâu rồi. Vấn đề chỉ là cách thức thể hiện ra thực tế mà thôi.
Người dân, tốt nhất là tự chuẩn bị cho mình con đường thoát Trung, càng sớm càng tốt...
Đất nước Việt đến thời điểm này,và cũng rất cấp bách, nhưng chưa thấy 1 anh hùng kiệt xuất nào đứng lên để cứu nghuy dân tộc. Lạy Trời Phật, mong lắm thay !.
Trả lờiXóa