Cảnh giác với mưu đồ của Trung Quốc trên biển Đông
TP - Theo GS Nguyễn Minh Thuyết, Trung Quốc đã và đang  có nhiều hành động ngang ngược trên biển với nhiều nước. Tham vọng của  Trung Quốc không chỉ là Biển Đông, nên cần tăng cường đoàn kết, nhất trí  trong từng thành viên ASEAN cũng như cả khối.
| GS Nguyễn Minh Thuyết. Trỗi dậy và phân chia ảnh hưởng | 
Theo ông, những hành động của Trung Quốc trên Biển Đông thời gian qua nói lên ý đồ gì của họ?
Gần đây, Trung Quốc đã trở thành nền kinh tế lớn thứ 2  thế giới, tích lũy ngoại tệ dồi dào, đưa được người và trạm không gian  lên vũ trụ, trang bị vũ khí mạnh… nên họ cho rằng thời cơ trỗi dậy để  phân chia lại ảnh hưởng với các cường quốc đã đến. 
Chính vì vậy, họ tỏ ra rất hung hăng, gây chuyện với  tất cả các nước có chung đường biển, từ các nước Đông Nam Á cho đến Nhật  Bản, Hàn Quốc, thậm chí nhiều lần tàu cá xâm phạm cả lãnh hải của Nga. 
Riêng ở Biển Đông, mưu đồ biến vùng biển này thành "ao  nhà" của Trung Quốc bộc lộ qua những bước đi rất rõ ràng: Từ chỗ biến  vùng biển không có tranh chấp thành vùng có tranh chấp đến thực hiện  hàng loạt hành động ngang ngược nhằm xác lập chủ quyền như đơn phương  công bố lệnh cấm đánh bắt cá, đưa giàn khoan khủng ra Biển Đông, rồi kéo  hàng ngàn tàu cá kèm tàu vũ trang vào vùng biển các nước… 
Có thể nói rằng chủ quyền lãnh thổ nước ta đang đứng trước thử thách lịch sử rất to lớn. 
Trách nhiệm trước lịch sử đang đòi hỏi thế hệ chúng ta  nhận rõ nguy cơ và có quyết sách sáng suốt, quyết tâm mạnh mẽ để bảo vệ  giang sơn gấm vóc, đảm bảo cho cuộc sống hạnh phúc vững bền của các thế  hệ con cháu muôn đời sau.
Vì sao Trung Quốc có những động thái rất ngang ngược ngay sau khi Quốc hội ta thông qua Luật Biển?
Phản ứng với Luật Biển Việt Nam chỉ là cái cớ để Trung  Quốc thực hiện mưu đồ đã tính toán từ lâu. Các nước Philippines, Nhật  Bản đâu có chuyện gì mắc mớ với họ về Luật Biển mà họ cũng hăm dọa và  xâm phạm chủ quyền?
 Với thế giới, Trung Quốc cho rằng, bây giờ là thời cơ  của họ vì Mỹ và các nước phương Tây đang sa lầy ở Afghanistan và Trung  Đông, khó có thể phản ứng mạnh với các hành vi ngang ngược của họ… Có  thể nói Trung Quốc luôn biết tận dụng cơ hội, nhưng lần này họ đã không  làm đúng lời dặn của Đặng Tiểu Bình là “náu mình chờ thời”. 
Họ trỗi dậy hơi sớm, vì vậy, hình ảnh “bạn của các dân tộc bị áp bức” được họ tạo dựng công phu từ bao năm nay sẽ bị lật tẩy. 
Cảnh giác, không nhân nhượng
Trước nguy cơ bị xâm phạm chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, chúng ta cần hành động thế nào? 
Chúng ta phải tăng cường sức mạnh quốc phòng. Nhưng quan trọng hơn là phải luôn mài sắc tinh thần cảnh giác. Về đối nội, phải khoan sức dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Phải làm cho mỗi người Việt Nam thấm nhuần chân lý  “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” và tin tưởng vào sức mạnh Việt Nam  trong cuộc đấu tranh thiêng liêng bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn  lãnh thổ.
 Về đối ngoại, cần tăng cường thông tin cho nhân dân  Trung Quốc và nhân dân thế giới hiểu rõ vấn đề; tăng cường đoàn kết nhất  trí trong khối ASEAN; tranh thủ mọi sự ủng hộ, hỗ trợ quốc tế. 
Có được sự ủng hộ rộng rãi của dư luận quốc tế, trong  đó có những người dân Trung Quốc yêu chuộng hoà bình, công lý thì sự  nghiệp chính nghĩa của nhân dân ta mới thành công. 
Trong bối cảnh hiện nay, chúng ta cần làm gì để tăng cường sự đoàn kết nhất trí trong ASEAN ?
Trong khối có những nước, do hoàn cảnh riêng, dễ bị  Trung Quốc mua chuộc, chi phối. Để thực sự có một ASEAN hoàn toàn thống  nhất trong nhận thức và hành động, một mặt, chúng ta cần tăng cường trao  đổi thông tin và quan điểm với các nước bạn.
 Mặt khác, cần giải quyết những bất đồng với một số  nước ASEAN về biển đảo, tiến tới ký kết những văn bản có tính chất pháp  lý về lãnh thổ, lãnh hải. Sự đồng thuận cao trong ASEAN có ý nghĩa hết  sức quan trọng. 
Còn chính sách đối với Trung Quốc?
Trung Quốc là nước láng giềng. Về chiến lược, mình phải  luôn giữ được quan hệ hoà bình với họ, đồng thời làm cho họ dần dần  hành xử một cách có trách nhiệm như một nước lớn trong quan hệ láng  giềng. 
Bên cạnh đó, cần tiếp tục đàm phán về biên giới và các  vấn đề biển đảo để đi đến giải pháp mà cả hai bên chấp nhận được. Phải  tích cực thúc đẩy để sớm ký kết Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông giữa  các nước ASEAN với Trung Quốc. 
Nhưng đứng trước hành động đe doạ xâm lược và xâm lược thì phải có thái độ cứng rắn, không thể nhân nhượng. 
Một mặt, phải đưa vấn đề Biển Đông, bao gồm những chứng  cứ về chủ quyền của Việt Nam và hành vi xâm phạm chủ quyền ngang ngược  của Trung Quốc ra các diễn đàn, tổ chức quốc tế. Mặt khác, phải sẵn sàng  đáp trả đúng mức các hành động xâm phạm chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ. 
Tăng cường thông tin
Cần làm gì để người dân hiểu rõ chính sách bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ?
Dân ta ai cũng sẵn sàng gánh vác sự nghiệp đấu tranh  bảo vệ Tổ quốc, chia sẻ với những khó khăn của đất nước. Những tin tức  về hành động của Trung Quốc xâm phạm chủ quyền nước ta cũng như tin tức  về chủ trương và các biện pháp xử lý của chúng ta, cũng như kết quả thực  hiện chủ trương và các biện pháp đó cần được chuyển tải một cách đầy đủ  và kịp thời tới nhân dân. 
Tăng cường thông tin, tuyên truyền cũng là để nhân dân Trung Quốc và nhân dân thế giới hiểu rõ vấn đề. Bộ máy tuyên truyền của Trung Quốc nói rất nhiều, rất mạnh, thậm chí sẵn sàng xuyên tạc, miễn có lợi cho họ.
Trong khi đó, công tác thông tin, tuyên truyền của ta vừa qua dường như chưa được chú trọng đúng mức. 
Theo ông, cần thông tin, tuyên truyền những gì? 
Trước tiên, phải thông báo đầy đủ, kịp thời về diễn  biến của tình hình, chủ trương, biện pháp giải quyết của Đảng, Nhà nước  và kết quả thực hiện chủ trương và các biện pháp đó. 
Thứ hai, cần làm rõ chỗ mạnh, chỗ yếu và mưu đồ của  Trung Quốc. Hiện nay, nếu Trung Quốc gây ngay ra một cuộc chiến tranh  thì họ cũng không làm được, bởi họ có những tử huyệt rất rõ ràng. 
Nhưng họ đang tự tung tự tác, phô trương cơ bắp trên  biển để doạ dẫm những người yếu bóng vía và xác lập chủ quyền đối với  các vùng biển quốc tế và vùng biển thuộc chủ quyền của nước khác. Nếu  thấy thời cơ thuận lợi, họ có thể cô lập, thậm chí đánh chiếm các đảo  của nước ta. Cho nên, không thể nào nhân nhượng mãi. 
Cảm ơn ông.
Nguyễn Tuấn - Cao Nhật
Nguồn: Tiền Phong.
  
Nhìn lại lịch sử, Việt Nam ta từng có ba lần mất nước mà mỗi lần có một nguyên nhân riêng: Lần thứ nhất vào thời An Dương Vương, mà nguyên nhân là mất cảnh giác, đem giặc vào nhà. Từ đó, nước ta rơi vào vòng nô lệ phương Bắc suốt 1000 năm (từ năm 179 tr. CN đến năm 938). Lần thứ hai mất nước là vào thời nhà Hồ. Hồ Quý Ly có tài nhưng không được lòng dân nên mới lập ra triều Hồ được 7 năm thì nước mất vào tay giặc Minh. Lần đô hộ này kéo dài chẵn 20 năm (1407 – 1427). Lần thứ ba mất nước là vào thời Nguyễn. Khiếp nhược trước sức mạnh của giặc ngoại xâm, nhà Nguyễn không những không cho quân dân ta đánh Pháp mà còn đem quân triều đình đi “dẹp loạn”. Đó là lần mất nước do triều đình hèn nhát, sợ dân hơn sợ giặc, khiến nước ta trở thành thuộc địa của thực dân (1884 – 1945).
Bản gốc trả lời của GS. Nguyễn Minh Thuyết:
GS Nguyễn Minh Thuyết: Tham vọng của Trung Quốc không chỉ là Biển Đông
Posted by basamnews on 14/08/2012
Đôi lời: Bài phỏng vẫn dưới đây do phóng viên báo Tiền phong thực hiện, đã được biên tập sửa, thêm, bớt so với bản gốc và đăng sáng 13/8/2012. Để tiện theo dõi, xin đăng cả hai bản và lưu ý trên bản gốc: + Chữ màu đỏ là do biên tập thêm vào. + Chữ màu xanh do biên tập cắt bỏ. + [Chữ màu xanh đặt trong ngoặc] là phần được biên tập thay bằng từ ngữ khác. + Chữ màu nâu do biên tập dùng để thay thế những từ ngữ màu xanh đặt trong ngoặc.
Cảnh giác với mưu đồ của Trung Quốc trên biển Đông
[Tham vọng của Trung Quốc không chỉ là Biển Đông]
Theo GS Nguyễn Minh Thuyết, Trung Quốc đã và đang có nhiều hành động ngang ngược trên biển với nhiều nước. Tham vọng của Trung Quốc không chỉ là Biển Đông, nên cần tăng cường đoàn kết, nhất trí trong từng thành viên ASEAN cũng như cả khối. [Trao đổi với Tiền Phong, GS Nguyễn Minh Thuyết cho rằng lịch sử quan hệ của Trung Quốc với các nước xung quanh cho thấy mưu đồ bành trướng của họ rất rõ. Trung Quốc có biên giới với rất nhiều nước và gần như không có nước nào không bị Trung Quốc gây chuyện. Với Việt Nam ta, tham vọng của Trung Quốc không chỉ là chiếm biển đảo của ta, mà là nô dịch ta.]Thưa GS, những hành động của Trung Quốc trên Biển Đông thời gian qua nói lên ý đồ gì của họ?
Gần đây, Trung Quốc đã trở thành nền  kinh tế lớn thứ 2 thế giới, tích lũy ngoại tệ dồi dào, đưa được người và  trạm không gian lên vũ trụ, trang bị vũ khí mạnh,… nên họ cho rằng thời  cơ trỗi dậy để phân chia lại ảnh hưởng với các cường quốc đã đến. Chính  vì vậy, họ tỏ ra rất hung hăng, gây chuyện với tất cả các nước có chung  đường biển, từ các nước Đông Nam Á cho đến Nhật Bản, Hàn Quốc, thậm chí  nhiều lần tàu cá xâm phạm cả lãnh hải của Nga. Trên  bộ, ngoài chuyện tranh chấp từng mét vuông đất với Việt Nam bằng những  thủ đoạn ti tiện, không hề xứng với cương vị một nước lớn, họ vẫn còn  chiếm hàng chục nghìn km2 của Ấn Độ và vẫn ngang ngược xếp một bang của  nước này vào lãnh thổ nước mình. Có thể thấy dã tâm của chính quyền  Trung Quốc đã bộc lộ rất rõ, không khác gì mưu đồ thống trị thế giới của  chế độ Hitler những năm 30 – 40 thế kỷ trước.
Riêng ở Biển Đông, mưu đồ biến vùng biển này thành “ao nhà” [dã tâm này] bộc  lộ qua những bước đi rất rõ ràng: từ chỗ biến vùng biển không có tranh  chấp thành vùng có tranh chấp đến thực hiện hàng loạt hành động ngang  ngược nhằm xác lập chủ quyền như đơn phương công bố lệnh cấm đánh bắt  cá, đưa giàn khoan khủng ra Biển Đông, kéo hàng chục, rồi hàng nghìn, hàng chục nghìn tàu đánh cá liên hoàn theo kiểu “Xích Bích” ngày xưa kèm tàu vũ trang vào vùng biển các nước, tiến  hành tuần tiễu ngoài lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc,  thành lập đơn vị hành chính và quân đồn trú ở cái gọi là “thành phố Tam  Sa” v.v… Trong quá trình tìm phương cách bành trướng, mỗi khi có thời  cơ thuận lợi là họ sẵn sàng dùng vũ lực đánh chiếm các đảo thuộc chủ  quyền của nước khác để tạo thế áp đặt “đường lưỡi bò” trên biển, như đã  từng chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam tháng 1 năm 1974 với sự làm  ngơ của chính quyền Mỹ lúc bấy giờ hoặc chiếm một số đảo và bãi đá ngầm ở  quần đảo Trường Sa của Việt Nam năm 1988 lúc Liên Xô đã suy yếu.
Với Việt Nam ta, tham vọng của Trung  Quốc còn lớn hơn nhiều. Họ không chỉ muốn chiếm biển đảo của ta, mà còn  muốn nô dịch ta, biến cả nước ta thành thuộc quốc, thậm chí thành tỉnh,  huyện của họ. Ngay từ năm 1939, trong cuốn “Cách mạng Trung Quốc và Đảng  cộng sản Trung Quốc”, Mao Trạch Đông đã nhìn nhận Việt Nam như một xứ  thuộc địa mà Trung Quốc mất vào tay người Pháp. Ông Mao viết:“Sau  khi dùng chiến tranh đánh bại Trung Quốc, các nước đế quốc đã cướp đi  nhiều nước phụ thuộc và một bộ phận của lãnh thổ Trung Quốc: Nhật chiếm  Triều Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, quần đảo Bành Hồ và Lữ Thuận. Anh chiếm  Miến Điện, Butan, Nêpan và Hương Cảng. Pháp chiếm An Nam…”. Trong  cuộc họp Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc,  tháng 8 năm 1965, nhà lãnh đạo Trung Quốc vạch ra chiến lược tràn xuống  Đông Nam Á như sau: “Chúng ta phải giành cho được Đông Nam Á, bao  gồm cả miền Nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malaysia và  Singapore,…Một vùng như Đông Nam Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản  […] xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy […] Sau khi giành  được Đông Nam Á, chúng ta có thể tăng cường được sức mạnh của chúng ta ở  vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô –  Đông Âu, gió Đông sẽ thổi bạt gió Tây”.
Suốt hàng chục năm qua, Trung Quốc đã  dùng đủ mọi thủ đoạn làm suy yếu nước ta: Họ tổ chức thu mua từ rễ hồi  đến móng trâu bò, đẩy giá một số mặt hàng nông nghiệp lên để làm lạc  hướng canh tác của nông dân ta rồi bất ngờ chấm dứt giao dịch,… cốt để  phá hoại sản xuất. Tiền giả cũng từ Trung Quốc tuồn vào. Hơn 90% các gói  thầu xây dựng quan trọng của Việt Nam đều rơi vào tay nhà thầu Trung  Quốc nhưng tiến độ thực hiện chậm, công nghệ tồi, chất lượng không đảm  bảo. Chỉ cần nhìn tiến độ xây dựng các nhà máy nhiệt điện ở một số tỉnh  phía Bắc chậm 5, 7 năm trời cũng có thể thấy vấn đề. Về quân sự, tàu vũ  trang của họ đã đến tận vùng biển của ta, cướp bóc, đánh đập ngư dân ta.  Bên cạnh đó, đội quân thứ 5 của họ đã  cài cắm khắp nơi, từ các công  trình ở đồng bằng đến Tây Nguyên, từ những mảnh đất rừng biên giới, đầu  nguồn cho đến những vùng biển quan trọng. Người giả danh du lịch, giả  danh sang học cũng rất đông.
Có thể nói rằng độc lập dân tộc và chủ  quyền lãnh thổ nước ta đang đứng trước thử thách lịch sử rất to lớn.  Trách nhiệm trước lịch sử đang đòi hỏi thế hệ chúng ta nhận rõ nguy cơ bị xâm lược, bị lệ thuộc và có quyết sách sáng suốt, quyết tâm mạnh mẽ để bảo vệ giang sơn gấm vóc, xứng đáng với công lao của các bậc tiên liệt đã mở nước, giữ nước trong hàng ngàn năm qua và đảm bảo cho cuộc sống hạnh phúc vững bền của các thế hệ con cháu muôn đời mai sau.
Vì sao trong thời điểm này Trung Quốc lại dám leo thang như vậy, đặc biệt họ có những động thái ngang ngược [rất liều lĩnh] ngay sau khi Quốc hội ta thông qua Luật Biển Việt Nam?
Phản ứng với Luật Biển Việt Nam chỉ là  cái cớ để Trung Quốc thực hiện mưu đồ đã tính toán từ lâu. Các nước  Philippines, Nhật Bản đâu có chuyện gì mắc mớ với họ về Luật Biển mà họ  cũng hăm doạ và xâm phạm chủ quyền? Với thế giới, Trung Quốc cho rằng  bây giờ là thời cơ của họ vì Mỹ và các nước phương Tây đang sa lầy ở  Afghanistan và Trung Đông, khó có thể phản ứng mạnh với các hành vi  ngang ngược của họ. Với Việt Nam, họ  thấy nước ta đang gặp rất nhiều khó khăn về kinh tế, sự đồng thuận xã  hội không cao. Cho nên, họ nghĩ rằng có thể tranh thủ thời cơ này mà  thôn tính biển đảo, tiến tới nô dịch dân ta. Có  thể nói Trung Quốc luôn biết tận dụng cơ hội, nhưng lần này họ đã không  làm đúng lời dặn của Đặng Tiểu Bình là “náu mình chờ thời”. Họ trỗi dậy  hơi sớm, vì vậy, hình ảnh “bạn của các dân tộc bị áp bức” được họ tạo  dựng công phu từ bao năm nay sẽ bị lật tẩy. “Các  dân tộc bị áp bức” sẽ đề phòng họ, còn các cường quốc sẽ có biện pháp  để kiềm chế họ, không cho họ thực hiện giấc mơ bá quyền.
Trước nguy cơ bị xâm phạm chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, chúng ta cần hành động thế nào? 
Nhìn lại lịch sử, Việt Nam ta từng có ba lần mất nước mà mỗi lần có một nguyên nhân riêng: Lần thứ nhất vào thời An Dương Vương, mà nguyên nhân là mất cảnh giác, đem giặc vào nhà. Từ đó, nước ta rơi vào vòng nô lệ phương Bắc suốt 1000 năm (từ năm 179 tr. CN đến năm 938). Lần thứ hai mất nước là vào thời nhà Hồ. Hồ Quý Ly có tài nhưng không được lòng dân nên mới lập ra triều Hồ được 7 năm thì nước mất vào tay giặc Minh. Lần đô hộ này kéo dài chẵn 20 năm (1407 – 1427). Lần thứ ba mất nước là vào thời Nguyễn. Khiếp nhược trước sức mạnh của giặc ngoại xâm, nhà Nguyễn không những không cho quân dân ta đánh Pháp mà còn đem quân triều đình đi “dẹp loạn”. Đó là lần mất nước do triều đình hèn nhát, sợ dân hơn sợ giặc, khiến nước ta trở thành thuộc địa của thực dân (1884 – 1945).
Đó là những bài học xương máu cho chúng ta hôm nay. Chúng ta phải tăng cường sức mạnh quốc phòng. Nhưng quan trọng hơn là phải luôn mài sắc tinh thần cảnh giác, không vì bất kỳ lý do nào để người ngoài “ru ngủ” dẫn đến tình thế khó gỡ của An Dương Vương. Về  đối nội thì phải khoan sức dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân,  tăng cường sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Phải làm cho mỗi người  Việt Nam thấm nhuần chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” và tin  tưởng vào sức mạnh Việt Nam trong cuộc đấu tranh thiêng liêng bảo vệ độc  lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ. Về đối ngoại, cần tăng cường thông  tin cho nhân dân Trung Quốc và nhân dân thế giới hiểu rõ vấn đề; tăng  cường đoàn kết nhất trí trong khối ASEAN; tranh thủ mọi sự hỗ trợ quốc  tế. Có được sự ủng hộ rộng rãi của dư luận quốc tế, trong đó có những  người dân Trung Quốc yêu chuộng hoà bình, công lý thì sự nghiệp chính  nghĩa của nhân dân ta mới thành công.
Trong bối cảnh hiện nay, chúng ta cần làm gì để tăng cường sự đoàn kết nhất trí với các nước ASEAN ?
Nhìn chung, các nước ASEAN có nhiều điểm  giống nhau, trong đó có mục tiêu chung là vươn lên về kinh tế và các  mặt khác. Nhưng mỗi nước ASEAN có trình độ phát triển một khác; những  vấn đề quan tâm của các nước tuy giống nhau nhưng quyền lợi không hoàn  toàn thống nhất với nhau. Trong khối  cũng có những nước, do hoàn cảnh riêng, dễ bị Trung Quốc mua chuộc, chi  phối. Để thực sự có một ASEAN hoàn toàn thống nhất trong nhận thức và  hành động, một mặt chúng ta cần tăng cường trao đổi thông tin và quan  điểm với các nước bạn, mặt khác cần giải quyết những bất đồng với một số  nước ASEAN về biển đảo, tiến tới ký kết những văn bản có tính chất pháp  lý về lãnh thổ, lãnh hải. Sự đồng thuận cao trong ASEAN có ý nghĩa hết  sức quan trọng. Ngay hành động của  Campuchia vừa rồi rất đáng chê trách, nhưng ta cũng phải có cách xử lý  đúng đắn, không đẩy người bạn láng giềng từng chia ngọt sẻ bùi nhiều năm  với mình về phía kẻ đang muốn chi phối họ.
 Còn chính sách đối với Trung Quốc?
TQ là nước láng giềng. Về chiến lược,  mình phải giữ được quan hệ hoà bình với họ, đồng thời làm cho họ dần dần  hành xử một cách có trách nhiệm như một nước lớn trong quan hệ láng  giềng. Lãnh đạo hai nước đã thiết  lập đường dây nóng. Chắc chắn là phải sử dụng đường dây nóng này để bàn  bạc, giải quyết vấn đề mỗi khi có “việc nóng”. Bên  cạnh đó, cần tiếp tục đàm phán về biên giới và các vấn đề biển đảo để  đi đến giải pháp cả hai bên chấp nhận được. Phải tích cực thúc đẩy để  sớm ký kết Bộ Quy tắc ứng xử trên biển (COC) giữa các nước ASEAN với  Trung Quốc.
Nhưng đứng trước hành động đe doạ xâm  lược và xâm lược thì phải có thái độ cứng rắn, không thể nhân nhượng.  Một mặt, phải đưa vấn đề Biển Đông, bao gồm những chứng cứ về chủ quyền  của Việt Nam và hành vi ngang ngược của Trung Quốc [của nhà cầm quyền Bắc Kinh xâm phạm chủ quyền Việt Nam] ra các diễn đàn quốc tế như Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Đại hội đồng Liên hợp quốc, các tổ chức tài phán quốc tế. Mặt khác, phải sẵn sàng đáp trả đúng mức các hành động xâm phạm chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ.
 Giáo sư  nghĩ sao về chiến lược phát triển biển của Việt Nam, vai trò của biển trong tương lai của đất nước và dân tộc?
Từ lâu ta đã nhận thức được vai trò của  kinh tế biển và có chủ trương phát triển kinh tế biển. Nhưng việc thực  hiện chủ trương chưa đạt yêu cầu. Ta chưa có tàu công suất lớn để ra  khơi xa. Chưa có công nghệ và thiết bị bảo quản, chế biến hải sản ngay  trên biển. Lực lượng an ninh biển chưa được trang bị mạnh. Lực lượng  kiểm ngư cũng chỉ mới được đề xuất thành lập. Một nước muốn tự bảo vệ  mình thì phải mạnh về kinh tế và  quân sự. Phát triển kinh tế biển ngoài  ý nghĩa kinh tế còn là một cách để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền  và toàn vẹn lãnh thổ.
 Trên mặt trận thông tin, tuyên truyền, cần làm gì để người dân hiểu và đồng thuận với chính sách bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ?
Dân ta ai cũng sẵn sàng gánh vác sự nghiệp đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, chia sẻ với những khó khăn của đất nước. Phần  đông dân chúng chia sẻ với những khó khăn và yêu cầu tế nhị của công  tác ngoại giao. Nhưng nếu những tin tức về hành động của Trung Quốc xâm  phạm chủ quyền nước ta cũng như tin tức về chủ trương và các biện pháp  xử lý của Đảng, Nhà nước ta, kết quả thực hiện chủ trương và các biện  pháp đó không được thông báo một cách đầy đủ và kịp thời thì sẽ khó nhận  được sự đồng thuận của đông đảo các tầng lớp nhân dân. Bảo vệ Tổ quốc  là trách nhiệm thiêng liêng của cả 90 triệu đồng bào ta. Đó là những  người chủ thật sự của đất nước. Không thông báo đầy đủ, kịp thời cho dân  và lắng nghe ý kiến của dân về những vấn đề liên quan đến vận mệnh của  đất nước mà họ đang làm chủ là không thực hiện đúng bổn phận của những  người đang nhận trách nhiệm làm công bộc cho dân.
Tăng cường thông tin, tuyên truyền cũng  là để nhân dân Trung Quốc và nhân dân thế giới hiểu rõ vấn đề.  Bộ máy  tuyên truyền của Trung Quốc nói rất nhiều, rất mạnh, thậm chí sẵn sàng  xuyên tạc, miễn có lợi cho họ. Trong khi đó, công tác thông tin, tuyên  truyền của ta [mình] vừa qua dường như chưa được chú trọng đúng mức [quá yếu]. Lỗi  này không phải là của các cơ quan báo chí, mà do lỗi từ trên, lúc mở  ra, lúc thít lại, không cho nói. Thông tin, tuyên truyền như thế thì  chẳng nói người dân Trung Quốc, người dân nước ngoài, mà ngay người dân  Việt Nam cũng không hiểu được vấn đề.
Cụ thể, theo GS, cần thông tin, tuyên truyền những gì? 
Như tôi đã nói,  trước tiên, phải thông báo đầy đủ, kịp thời về diễn biến của tình hình,  chủ trương, biện pháp giải quyết của Đảng, Nhà nước và kết quả thực  hiện chủ trương và các biện pháp đó.
Thứ hai, cần làm rõ chỗ mạnh, chỗ yếu và  mưu đồ của Trung Quốc. Hiện nay, nếu Trung Quốc gây ngay ra một cuộc  chiến tranh thì họ cũng không làm được, bởi họ có những tử huyệt rất rõ  ràng. Nhưng họ đang tự tung tự tác, phô trương “cơ bắp” trên biển để doạ  dẫm những người yếu bóng vía và xác lập chủ quyền đối với các vùng biển  quốc tế và vùng biển thuộc chủ quyền của nước khác. Nếu thấy thời cơ  thuận lợi, họ có thể cô lập, thậm chí đánh chiếm các đảo của nước ta. Họ gặm nhấm dần như thế mà mình cứ lùi, cứ chờ xảy ra chiến tranh quy mô mới ra tay thì lúc ấy không kịp nữa. Cho nên, không thể nào nhân nhượng mãi. Lùi nhiều quá sẽ đến lúc không còn đường ra.
Thứ ba, theo tôi, phải khích lệ lòng yêu  nước của người dân. Trước các hành vi gây hấn và xâm lược của Trung  Quốc, đứng về phía một người dân bình thường mà nói, lòng tự trọng không  cho phép người ta im lặng. Nhà nước cần tôn trọng quyền nói lên ý kiến  của người dân. Không để xảy ra những phát ngôn, hành động xúc phạm lòng  yêu nước của người dân. Phải tăng cường tuyên truyền các tấm gương yêu  nước trong lịch sử. Có như vậy mới hun đúc được ngọn lửa nhiệt tình yêu  nước, sẵn sàng xả thân cứu nước của nhân dân, đặc biệt là của thanh  niên.
Thú thật, đọc một số bài báo và nghe một  số ý kiến trên đài phát thanh – truyền hình gần đây xúc phạm người biểu  tình chống những hành động gây hấn và xâm phạm chủ quyền nước ta, tôi  thấy rất đau lòng. Xúc phạm người dân như vậy, đến lúc cần, làm sao động  viên được sự ủng hộ của nhân dân? Theo tôi, nếu chính quyền thấy những  cuộc biểu tình của người dân không thật có lợi cho công tác đối ngoại  hiện thời thì có thể cử một số cán bộ có trách nhiệm đến trao đổi với  người dân. Mình có đường lối đúng thì lo gì dân không hiểu, không ủng  hộ? Giả sử trong những người đi biểu tình phản đối Trung Quốc, có người  lợi dụng để kêu gọi lật đổ chính quyền, làm gì không phát hiện ra được!  Ai vi phạm pháp luật thì cứ việc xử, nhưng không nên vì thế mà đánh  đồng, xúc phạm tất cả mọi người.
 Xin cảm ơn Giáo sư !
 Nguyễn Tuấn – Cao Nhật thực hiện
Nguồn: BA SÀM.
 

Đúng. Chúng ta không thể nào nhân nhượng mãi. Dân tộc Việt Nam chán ghét chiến tranh, yêu chuộng hoà bình nhưng quyết tâm bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Tiên để lại cho mãi mãi đời con cháu mai sau. Xin cảm ơn Nhà Yêu Nước NMT.
Trả lờiXóaChính phủ Việt Nam còn cấm và đàn áp, bắt bớ người dân Việt Nam thể hiện lòng yêu nước ngay trên đất nước của mình thì làm sao kêu gọi các nước trong khối ASEAN cùng đòan kết cùng nhất trí để chống TQ đây?
Trả lờiXóa