.
Văn hóa Đại Việt trong thế đối thoại với Trung Hoa
Văn hóa Đại Việt trong thế đối thoại với Trung Hoa
- Vai trò của các chúa Trịnh thời Lê Trung Hưng
Nguyễn Xuân Diện & Trang Thanh Hiền
Mở đầu
Thời  gian gần đây, đã có nhiều cuộc hội thảo về Chúa Trịnh thu hút được sự  quan tâm của giới học giả nhiều lĩnh vực. Nhiều vấn đề về chính trị, xã  hội, văn hóa, giáo dục, quân sự … của thời đại Lê Trịnh (hoặc từng vị  Chúa Trịnh) được các nhà nghiên cứu đưa ra thảo luận, đánh giá.
Công  lao của các chúa Trịnh về mặt chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội…được  ghi nhận. Đặc biệt là mô hình chính trị “song trùng quyền lực”(còn gọi  là “lưỡng đầu chế”) đã được một số nhà nghiên cứu nêu ra và lý giải,  đánh giá[1].  Về mặt văn hóa, các học giả cũng đã đưa ra những tư liệu và đánh giá về  công lao của các chúa Trịnh trên các lĩnh vực văn hóa giáo dục. Tuy  nhiên, ngay trong vấn đề này, cũng chưa có đánh giá toàn diện, trước hết  là do sự bao quát vấn đề trong một nghiên cứu liên ngành, đa ngành mà  sự khó khăn trước hết là ở sự thiếu thốn tư liệu. 
Bài  viết này cố gắng xem xét những đóng góp của các chúa Trịnh trong việc  gây dựng một nền văn hóa Đại Việt độc lập và trong thế đối thoại với  Trung Hoa dưới thời Lê Trung hưng. 
TỪ NHỮNG THÀNH TỰU VỀ CHÍNH TRỊ VÀ KINH TẾ 
Trong  suốt 249 năm tồn tại, nhà Trịnh đã thể hiện được trách nhiệm chính trị  đối với đất nước thông qua nhiều hoạt động tích cực và nhiều thành tựu  được sử sách ghi nhận. Trong 249 năm ấy, lãnh thổ đã được giữ vững và  không xảy ra một cuộc xâm lược nào của phương Bắc. Đó là một điều rất  đáng được lưu ý đánh giá. Các chúa Trịnh Căn và Trịnh Cương đã nhiều lần  cử các đoàn sứ bộ để bàn bạc việc xác định cắm mốc biên giới giữa nước  ta và nhà Thanh, Trung Quốc. Sự kiện đáng lưu ý là năm 1728, nước ta đã  đòi được mỏ đồng Tụ Long mà nhà Thanh đã chiếm trước đó[2]. Sự kiện này được Phan Huy Chú đặc biệt chú ý và đã ghi lại trong Lịch triều hiến chương loại chí[3]. 
Trên  phương diện ngoại giao, nhà chúa duy trì phương châm mềm dẻo, ôn hòa và  linh hoạt, đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên trên hết. Một vấn đề mà các  triều đại phong kiến Việt Nam luôn đặt ra khi giao thiệp với phương Bắc  là danh hiệu nào cho người đứng đầu nước Việt. Trước kia, dưới thời nhà  Minh, các vua Việt Nam thường chỉ được họ công nhận danh hiệu Đô thống  sứ, nhưng với những cố gắng bền bỉ ngoại giao của các chúa Trịnh, nhà  Minh buộc phải công nhận vua Lê là Quốc vương. Năm 1647, chúa Trịnh  Tráng đã đòi được nhà Minh phong cho vua Lê Thần Tông là An Nam Quốc  vương[4].  Năm 1651, nhà Minh phong cho chúa Trịnh là Đô thống sứ đại tướng quân,  nhưng Trịnh Tráng trả lại ấn sắc, ý rằng nước ta đã là một vương quốc.  Nhà Minh đành sai Trương Túc mang sắc sang phong chúa Trịnh Tráng là Phó  Quốc vương[5].  Năm 1719, nhà Thanh sai Đặng Đình Triết sang phong vương, đòi vua Lê Dụ  Tông phải ba quỳ chín vái để thụ phong. Trịnh Cương đề cao quốc thể,  đưa thư không chấp nhận việc vua Lê phải quỳ lạy. Đặng Đinh Triết cứ  gượng ép nhưng Trịnh Cương vẫn cứ bác bỏ. Rất nhiều thư từ đã được trao  qua đổi lại, cuối cùng Đặng Đinh Triết cũng đành làm lễ phong Quốc vương  cho vua Lê mà vua không phải hành lễ chư hầu ba quỳ chín vái[6]. 
Về thành tựu kinh tế, các nhà nghiên cứu đều nhắc đến sự phồn thịnh của Kẻ Chợ (kinh đô Thăng Long) và các trung tâm thương mại lớn như Phố Hiến, Hội An, Phú Xuân. Sử gia Phan Huy Chú, các nhà truyền giáo phương Tây, các học giả thời hiện đại như Phạm Văn Diêu, Nguyễn Thừa Hỷ, Nguyễn Thanh Nhạ đều viết về kinh tế thời Lê – Trịnh những lời khen ngợi. Nhà nghiên cứu Bỉnh Di viết: “Triều Lê Trịnh là triều đại đầu tiên trong lịch sử mở rộng buôn bán với phương Tây; năm 1645 đặt thương điếm Hà Lan, 1686 đặt thương điếm Anh…Đó là những dấu vết còn lại của một Thăng Long hưng thịnh do phát triển kinh tế hàng hóa và nghề thủ công dưới triều Lê Trịnh”[7].
ĐẾN NHỮNG THÀNH TỰU VỀ XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA ĐẠI VIỆT ĐỘC LẬP TRONG THẾ ĐỐI THOẠI VỚI TRUNG HOA 
Lễ nhạc và Văn chương khác Trung Hoa
Trước đây, trong khi nghiên cứu về thời Lê Trịnh, chúng tôi đã công bố phát hiện về năm bản nhạc chương Nôm đời Lê[8].  Đó là 5 bản nhạc chương Nôm được dùng tấu lên cùng âm nhạc trong cung  miếu nhà Trịnh mà tác giả là các bậc đại bút tiêu biểu cho các nho sĩ  phong kiến. Những nhân vật được nhắc tới và ca tụng trong các bản nhạc  chương đều là các tiên liệt dòng chúa Trịnh và đều được gọi bằng tôn  hiệu. Cụ thể như sau: 
- Chiêu Tổ Khang vương Trịnh Căn (ở ngôi chúa từ năm 1682 đến 1709).
- Lương Mục vương Trịnh Vĩnh (là con trưởng của chúa Trịnh Căn), mất sớm, chưa chính thức nối ngôi chúa.
- Tấn Quang vương Trịnh Bính (là con trưởng của Lương Mục Vương và là cha của chúa Trịnh Cương). Mất sớm, chưa chính thức nối ngôi chúa.
- Hy Tổ Nhân vương Trịnh Cương (ở ngôi chúa từ năm 1709 đến 1729).
- Nghị Tổ Ân vương Trịnh Doanh (ở ngôi chúa từ năm 1740 đến 1767).
Các  bản nhạc chương tấu trong nghi lễ ở cung miếu họ Trịnh được viết bằng  chữ Nôm là điều ít ngờ tới. Song, còn ngạc nhiên hơn, khi chúng ta biết  các tác giả của các bản nhạc chương này. Họ đều là những nhà khoa bảng  lừng danh (trừ Mai Thế Uông chỉ đỗ Hương cống), là những nhà văn, nhà  thơ, những sử gia, chính trị gia nổi tiếng. 
Cung miếu là nơi họ Trịnh thờ cúng tổ tiên. Các chúa Trịnh rất coi trọng việc tế lễ ở đây. Chính Trịnh Căn, trong bài Vịnh Cung miếu thi (Khâm định thăng bình bách vịnh)  đã viết về nơi này: “Theo đạo hiếu thờ phụng tổ tiên; lời giáo huấn  thực là rõ rệt. Xem văn hay mà chuộng đức trung thuần; Xét tế tự mà truy  nguồn tìm ngọn. Than ôi! Các bậc thánh vương tôn kính; một lòng khuông  phò xã tắc, gây dựng lo toan nghiệp lớn. Dấy anh uy dũng lược, trừ tiếm  nghịch tà gian. Định vạc rồng, lấy lại Kinh đô; Mở cõi đất, dấy lên thế  đạo….Cảm kích vô cùng, chưa hề có được chút chi đền báo, xin kính cẩn  làm hai bài thơ tán dương công đức, may ra làm rõ được lòng chí kính  vậy”[9]. 
Việc  phát hiện các bản nhạc chương Nôm đời Lê có ý nghĩa quan trọng đối với  các vấn đề văn hóa và âm nhạc nước ta. Như chúng ta đều biết, lễ nhạc  của các triều đại phong kiến luôn luôn chịu ảnh hưởng từ phía Trung Hoa,  trong đó chịu ảnh hưởng lớn nhất là các hình thức nhạc nghi lễ, tế tự,  và điều này thấm sâu đến tận lễ nghi phong tục trong dân gian. Nhưng đây  là lần đầu tiên chúng ta biết cha ông ta đã dùng chữ Nôm trong nghi lễ  tế tự chốn cung miếu. Các bài này lại được soạn theo lệnh của chúa  Trịnh, và người soạn lại là các nhà khoa bảng lớn cũng là các quan chức  quan phương làm việc trong chính phủ của phủ chúa và triều đình nhà Lê. 
Các  bản Nhạc chương Nôm đời Lê cho thấy thời đại này đang xây dựng cho  riêng một lề lối “y - quan - lễ - nhạc” khác Trung Hoa, khẳng định sự  độc lập và riêng khác của văn hóa Việt, trong thế đối thoại với Trung  Hoa. Đáng tiếc là sau đó, triều Nguyễn đã không nối tiếp được điều này. 
Các  chúa Trịnh cũng là những người đặc biệt coi trọng chữ Nôm và có nhiều  sáng tác bằng chữ Nôm. Về sáng tác chúng ta thấy Trịnh Căn có tập Ngự đề Thiên hòa doanh bách vịnh (Khâm định thăng bình bách vịnh), gồm 90 bài thơ, trong đó chỉ có 2 bài thơ chữ Hán; Trịnh Cương (? – 1729) có Lê triều ngự chế quốc âm thi là tập thơ văn Nôm từ khúc, ký và thơ (46 bài thơ Nôm); Trịnh Doanh (1720 – 1767) có tập Càn Nguyên ngự chế thi tập 268 bài, trong đó có 37 bài thơ chữ Hán, 231 bài thơ Nôm[10]. 
Ở ba tập thơ trên, các chủ đề lớn từ Tam diệu đại thống (ba mối huyền diệu lớn Thiên Địa Nhân) (Khâm định thăng bình bách vịnh), đến các khúc ca vịnh đi tuần thú (Lê triều ngự chế quốc âm thi),  rồi các bài vịnh nhân ái trong họ hàng, đạo trị nước, phép luyện quân,  giáo huấn, sai các tướng đi đánh trận, khen dụ đại thần, úy lạo sứ thần,  tưởng lệ các bậc kỳ lão, tôn sùng các vị thánh triết, cảm nhận phúc  trời, ban thưởng, thơ đề vịnh phong cảnh khắp nơi (Càn Nguyên ngự chế thi tập )…đều được thể hiện bằng chữ Nôm. 
Đặc  biệt nhất, phải kể đến Trịnh Sâm (1739-1782) là một nhân vật, mà về mặt  văn hóa được đánh giá là có những đóng góp khá tích cực. Ông là một vị  chúa trọng học vấn, biết phát hiện và quý trọng hiền tài. Là người thích  du ngoạn, dấu vết xe loan của nhà chúa đã in khắp những nơi phong cảnh  đẹp trong nước, và đời sau coi ông là người đã phát hiện những tuyến du  lịch kỳ thú. Mỗi nơi ông đến, vẫn thường có thơ hoặc bút tích để lại,  với số lượng nhiều mà bài nào cũng hay, với nét riêng thi vị: Chơi động Hương Tích, Tây Hồ tức cảnh, Đăng Tuyết sơn hữu hứng, Đề Hương Tích tự thi. 
Trịnh Sâm còn có 1 bài thơ và một bài từ chép trong sách Bình Ninh thực lục: Ngự chế lạo hoàn dịch quốc âm thi và Ngự chế quốc âm từ khúc. Bài Ngự chế Quốc âm từ khúc  của Trịnh Sâm được viết bằng chữ Nôm. Trong nguyên bản, bài này được  gọi là bài từ khúc. Như chúng ta đều biết, Ngâm khúc Nôm là một trong  những sáng tạo thể loại của văn học chữ Nôm. Các tác phẩm Ngâm khúc Nôm  mà chúng ta thường gặp như Tứ thời khúc vịnh, Chinh phụ ngâm khúc, Cung oán ngâm khúc, Ai tư vãn, Văn chiêu hồn, Tự tình khúc … đều sử dụng thể thơ lục bát//song thất lục bát quen thuộc vốn có nguồn gốc từ thơ ca dân gian. Riêng trường hợp Ngự chế Quốc âm từ khúc,  được ghi là từ khúc, nhưng lại được viết giống như thể phú, bằng lối  biền ngẫu, với hai câu đối nhau. Chính điều này cho thấy, hoặc là cách  gọi tên thể loại của người xưa thật không chặt chẽ như quan niệm của  chúng ta ngày nay, hoặc là thể từ khúc ngày xưa được viết thế chăng? Tìm  hiểu về các điệu từ khúc mà các tác gia Việt Nam quen dùng, chúng tôi  cũng không ghi nhận được một điệu từ khúc nào viết với lối văn biền ngẫu  như trường hợp Ngự chế Quốc âm từ khúc. Từ đó, cho phép chúng  ta nghĩ đến việc, phải chăng, trong văn học thời trung đại, có một lối  từ khúc Nôm viết bằng lối văn biền ngẫu? [11]. 
Trịnh Sâm còn được cho là đã sáng tạo ra điệu Thổng trong ca trù. Điều này được công bố trong Việt Nam ca trù biên khảo của Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề, xuất bản tại Sài Gòn năm 1962[12]. Sau đó, Tuyển tập thơ ca trù của Ngô Linh Ngọc và Ngô Văn Phú (1987) cũng ghi như vậy. Gần đây nhất, trong hội thảo Trịnh Sâm cuộc đời và sự nghiệp tổ chức tại Thanh Hóa cuối năm 2008, nhà thơ Ngô Văn Phú có tham luận Chúa Trịnh với ca trù thêm một lần nữa khẳng định rằng chúa Trịnh Sâm đã làm ra điệu Thổng trong lối hát ca trù[13]. 
Nhắc đến thời kỳ này, không ai không nhắc đến cuốn từ điển song ngữ Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa.  Đây được coi là cuốn từ điển song ngữ Hán – Việt (Nôm) đầu tiên của  Việt Nam. Cuốn sách được tái bản (theo lối in mộc bản) vào năm Cảnh Hưng  22 (1761). Việc phải biên soạn một cuốn từ điển song ngữ Hán Nôm cho  thấy một nhu cầu tra tìm và đối sánh về mặt ngôn ngữ đã được đặt ra, qua  đó cũng cho thấy chữ Nôm Việt đã phát triển đến một trình độ ngôn ngữ  thực sự, phản ánh sự phát triển của chữ Nôm cả về phương diện ngữ âm và  phương diện văn tự. Từ đó đến nay, cuốn điển này luôn được các học giả  quan tâm nghiên cứu và dùng làm dẫn chứng trong việc nghiên cứu về chữ  Nôm, về tiếng Việt và các vấn đề khác[14]. 
Các  nhà văn học sử đều cho rằng thời Lê Trịnh là thời kỳ nở rộ của diễn ca  lịch sử và truyện Nôm, nhưng cũng không quên nhắc đến việc các chúa  Trịnh nhiều lần cấm đoán các tác phẩm văn học Nôm “trái với quan điểm  của Phủ chúa, có thể làm rối loạn cương thường phong hóa”[15].  Vì vậy, năm Quý Mão, niên hiệu Cảnh Trị 1 (1663), đã có lệnh cấm khắc  in và lưu hành: “Phàm các sách kinh, sử, tử, tập cùng văn chương có quan  hệ đến luân thường đạo lý ở đời, mới được khắc in và lưu hành. Còn các  loại sách dị đoan, tà thuyết, Đạo giáo, Phật giáo cùng các truyện Nôm và  thơ ca Nôm có liên quan đến chuyện dâm đãng, thì không được khắc in,  mua bán, làm tổn hại đến phong hóa”[16].  Tuy nhiên, “lệnh này không được nhân dân chấp hành, truyện Nôm vẫn cứ  được nhân dân truyền tụng ngày càng rộng rãi nên đến những năm 1718,  1751, Phủ chúa lại phải ra lệnh chỉ nhắc nhở việc thi hành. Rồi đến năm  Cảnh Hưng 21 (1760) đời Lê Hiển Tông , Trịnh Doanh lại sai Nhữ Đình Toản  diễn Nôm để dễ bề phổ biến”[17]. Thời kỳ này bên cạnh truyện thơ Nôm còn có ký Nôm, thậm chí có cả ký bằng chữ Hán nhưng lại dùng thể thơ lục bát[18]. 
Bên  cạnh việc chữ Nôm được sử dụng rộng rãi “trong triều, ngoài nội”, từ  phủ chúa tới dân gian, từ việc diễn đạt các nội dung nghiêm cẩn của đạo  đức và học thuật Nho gia đến các cung điệu tình cảm khác nhau của con  người chốn thôn cùng xóm vắng, thì chữ Nôm thậm chí lại còn xuất hiện cả  trong văn bản hành chính[19]. 
Tóm  lại, việc sử dụng chữ Nôm phổ biến và rộng rãi trong sáng tác văn học  (các loại đề tài) trong văn bản hành chính cho thấy, thực sự trong xã  hội lúc đó, dưới sự điều hành của Vua Lê Chúa Trịnh, chữ Nôm đã đi sâu  vào mọi mặt đời sống xã hội. 
Nghệ thuật Việt: 
Thời  đại Lê Trịnh hiện để lại rất nhiều dấu vết về nghệ thuật. Dường như, có  một nền nghệ thuật thời Lê Trung Hưng trong lịch sử nghệ thuật nước  nhà. Thời kỳ này, thực sự đã tạo nên những giá trị nghệ thuật thuần  Việt, khác hẳn trước và sau đó. Một trong những di sản nghệ thuật của  thời Lê – Trịnh để lại cho hậu thế, với số lượng di vật lớn, có thể quan  sát và miêu tả được là di sản kiến trúc. 
1. Kiến trúc  thời Lê – Trịnh gồm hai mảng: kiến trúc Phủ chúa Trịnh và dinh thự quan  lại ở Thăng Long và kiến trúc các chùa chiền, đền miếu, lăng mộ quan  đại thần được xây dựng dưới thời Lê Trịnh ở Thăng Long và các trấn. 
Với  mảng thứ nhất, cho đến nay, tư liệu về vương phủ họ Trịnh ở Thăng Long  được mô tả nhiều nhất và kỹ nhất trong các cuốn ghi chép của những giáo  sĩ phương Tây thế kỷ XVI. Trong phần viết về “Kiến trúc quần thể Vương  phủ” trong cuốn sách Họ Trịnh và Thăng Long, tác giả Quang Vũ đã cố gắng  dựng lại quy mô kiến trúc của Vương phủ họ Trịnh thông qua các tài liệu  mà tác giả có được như: Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài của Alexandre de  Rhodes, Vương quốc Đàng Ngoài của Samuel Baron (1663), Hành trình truyền  giáo (1653). Nhiều bức tranh do người Phương Tây vẽ về Thăng Long thế  kỷ XVI – XVIII cũng cung cấp được hình ảnh về kinh thành của vua Lê –  chúa Trịnh lúc bấy giờ. Bên cạnh các tài liệu do người Phương Tây viết,  có một tư liệu rất có giá trị, miêu tả vương phủ chúa Trịnh là cuốn sách  Thượng Kinh ký sự của Lê Hữu Trác, ghi lại chuyến đi tới Phủ  chúa Trịnh ở Thăng Long để chữa bệnh cho thế tử họ Trịnh. Những tư liệu  này đã đủ để tác giả Quang Vũ phác họa lại kiến trúc quần thể Vương phủ:  Vương phủ được thiết kế hình vuông, có tường bao quanh nằm ở phía Nam  hồ Tả Vọng. Vương phủ có 3 cửa, mặt phía Nam: Chính môn, mặt phía đông:  Tuyên Vũ môn, mặt phía Tây: Diệu Công môn. Khuôn viên phủ chúa bao gồm  khu Bệnh viện Việt Đức, qua phố Tràng Thi, Thư viện Trung ương, Tòa án  Tối cao, Hỏa Lò tới giáp phố Thợ Nhuộm ngày nay”[20].  Thư tịch cổ còn ghi được tên tuổi những trí thức lớn hoặc là quan chức,  hoặc là những người có họ hàng xa gần với Phủ chúa đều đã ra tay xếp  đặt hoặc trang trí cho Vương phủ. Đó là Kiều Nhạc hầu Nguyễn Khản “trong  cung chơi giả sơn, bể cạn hay hoa chim cây đá gì, tất phải qua bàn tay  ông Khản điểm xuyết chúa mới hài lòng”[21];  là Ôn Như hầu Nguyễn Gia Thiều (cháu gọi chúa Trịnh là cậu ruột) được  Trịnh Sâm cho vào phủ vẽ trang trí và trông nom tu sửa vương phủ[22]… 
Những  cung điện nguy nga lộng lẫy, những khu vườn ngự thấp thoáng các đình tạ  chạm trổ công phu tinh tế, những dòng ngự câu thơ mộng của phủ chúa đã  được miêu tả trong những tác phẩm văn học cho thấy quy mô kiến trúc to  lớn, những chạm khắc tinh vi của Vương phủ. Phạm Đình Hổ, trong Vũ trung  tùy bút cho hay: “Các loại trân cầm, dị thú, cổ mộc, quái thạch, chậu  hoa, non bộ trong dân gian đều thu vét hết không bỏ sót. Từng thấy lấy  cả một cây đa từ bờ Bắc chở qua sông đem về. Cây đa ấy cành lá rườm rà  như một cây cổ thụ treo leo nơi đầu non khe đá, rễ dài vài trượng, phải  đến một cơ đội lính vây quanh mà khiêng, ngồi trên có vài bốn người cầm  gươm gõ thanh la để lấy nhịp cho đi đều”. Rồi lính tráng nhà chúa đã  cướp đoạt của quý của người dân như sau: “Dò xem nhà người ta có hoa  chim đẹp thì biên ngay hai chữ Phụng thủ (vâng lệnh vua chúa mà lấy) vào  lồng trúc chậu sứ rồi ngầm sai đem xe và tay chân đến lấy phăng đi, gán  cho người ta tội giấu giếm vật cung phụng để hạch sách tiền của. Gặp  hòn non bộ hay cái cây to quá, có khi phải phá nhà hủy tường để đưa ra.  Những nhà giàu có khi phải bỏ hết của cải ra kêu xin. Nhiều nhà đập non  bộ, phá cây cảnh để tránh tai họa”[23]. 
Nhưng,  cho đến hôm nay, Vương phủ xưa hầu như không còn dấu vết gì. Các cơn  binh hỏa, thiên tai và thời gian đã xóa hết dấu vết của Vương phủ. Những  kiến trúc quy mô bị thiêu cháy, kéo theo những hoa viên đầy “kỳ hoa  quái thạch” cũng không còn. Các tác phẩm điêu khắc chạm trổ trên đá, gỗ  được bày biện trong phủ chúa xa hoa cũng không còn dấu vết. Bên cạnh  Vương phủ, các dinh thự của các quan lại trong cung vua phủ chúa cũng  mất dấu vết theo! Những hành cung của Chúa Trịnh tại Tây Hồ, Tử Trầm (Hà  Tây cũ), Dũng Thúy (Ninh Bình) cũng không còn! 
Mảng  kiến trúc các chùa chiền, đền miếu, lăng mộ quan đại thần được xây dựng  dưới thời Lê Trịnh ở Thăng Long và các trấn trái lại còn nhiều dấu vết  có thể khảo cứu được. Đó là những ngôi chùa đã trở thành danh lam cổ tự  như: Bút Tháp (do bà hoàng Trịnh Thị Ngọc Trúc hưng công), Tây Phương  (Trịnh Tạc sai trùng tu năm 1660), Nhạc Lâm (chúa và các phi tần có ghé  thăm và đề thơ), Kim Liên (Trịnh Sâm sai trùng tu), Nga My (Trịnh Đỗ  hưng công), Hàm Long (Trịnh Thập hưng công)…Những ngôi chùa này có diện  mạo đẹp đẽ như ngày nay đều là do được xây dựng, trùng tu lớn dưới thời  các chúa Trịnh. Chùa Bút Tháp với việc bố trí kiến trúc trải dài trên  một trục thần đạo, xen giữa các cây cối, hoa cỏ, hồ nước, tháp mộ giữa  một tổng thể cảnh quan đồng lúa và đê sông cho thấy một lối kiến trúc  khoáng đạt. Hoa viên của Bút Tháp nói riêng của các chùa chiền đền miếu  được xây dựng và tu bổ lớn dưới sự chỉ đạo của các chúa Trịnh hoặc sự  hưng công của các quan lại, phi tần cung phi của chúa Trịnh đều có nét  riêng đáng được xem là một nghệ thuật tiêu biểu. Đáng tiếc, vấn đề này  chưa được thống kê, nghiên cứu và tổng kết. 
Phân  tích các yếu tố Hoa và Việt trong bình đồ kiến trúc chùa Bút Tháp, GS  Nguyễn Duy Hinh nhận định rằng kiến trúc Bút Tháp là lối kiến trúc viện  lạc trong nghệ thuật kiến trúc Hoa[24].  Nhưng nhìn tổng thể kết cấu bố cục cũng như từng thành phần kiến trúc  thì thấy rằng yếu tố Việt được hiện diện rất rõ ràng. Đặc biệt là tòa  Tích Thiện Am bên trong có tháp Cửu phẩm liên hoa là một sản phẩm của  Phật giáo Việt Nam, mặc dầu nguồn gốc của nó thuộc về Phật giáo Mật  tông. Nó là sản phẩm có giá trị đặc biệt trong việc hình tượng hóa triết  lý Phật giáo đặc sắc Việt Nam thế kỷ XVII. Đây cũng là một trong ba tòa  tháp Cửu Phẩm bằng gỗ còn lại đến hôm nay ở nước ta[25].
Nhà  nghiên cứu mỹ thuật Phan Cẩm Thượng nhận định rằng: “Kiến trúc, điêu  khắc, trang trí Bút Tháp nằm gọn trong thế kỷ XVII là di tích kiến trúc  nguyên vẹn đặc trưng nhất của nghệ thuật Phật giáo cổ điển Việt Nam”[26]. 
Chùa  Kim Liên, chùa Tây Phương được bố trí bằng một bình đồ hình chữ “tam”  là bình đồ kiến trúc được khẳng định là của người Việt[27].  Với hai ngôi chùa này kiến trúc và trang trí cung đình hoa mỹ đã được  thể hiện trên rất nhiều thành phần kiến trúc. Không chỉ vậy, lối kiến  trúc hình chữ “tam” này đã là tiền đề cho lối kiến trúc “trùng thiềm  điệp ốc” rất độc đáo của cung điện thời Nguyễn sau này ở Huế. 
2. Nghệ thuật điêu khắc  trên đá, gỗ cũng là một di sản nghệ thuật Lê Trung hưng còn lại đến hôm  nay. Thời đại này dường như có sự nở rộ của việc xây cất những lăng mộ  của giới quý tộc. Những khu lăng mộ đá hiện còn rải rác khắp châu thổ  sông Hồng và xứ Thanh như: lăng Ân vương Trịnh Doanh, lăng Quận Đăng,  Phúc Khê hầu Nguyễn Văn Nghi, lăng Dương Lễ công Trịnh Đỗ (Thanh Hóa)  lăng Họ Ngọ, Dinh Hương, lăng Bầu ( Bắc Giang), lăng Quận công Nguyễn  Đức Nhuận (Yên Mỹ, Hưng Yên), lăng Quận Vân (Thường Tín, Hà Tây cũ)… là  các lăng của các quận công, thái giám triều Lê Trịnh. Sự nở rộ của việc  xây cất lăng mộ cho thấy sự quan tâm rất thiết yếu về một đời sống tâm  linh của các tầng lớp trên, mong có một sự bền vững và thịnh vượng cho  dòng họ cũng như quốc gia. 
Khi  đặt lăng mộ họ luôn phải quan tâm đến yếu tố phong thủy của một cuộc  đất tốt. Lăng mộ thời kỳ này vượt hẳn lên so với các triều đại trước đó  về cả qui mô lẫn nghệ thuật điêu khắc. Nếu thời Lê Sơ mới đặt ra các  chuẩn tắc trong việc xây dựng các lăng mộ theo công đức của người đã  khuất nhưng trình độ điêu khắc đá còn rất thô sơ, thì đến giai đoạn này,  nghệ thuật điêu khắc đá dường như đạt đến đỉnh cao. Từ các tượng quan  văn võ cho đến các tượng voi ngựa đều được khắc tạc vô cùng sinh động.  Kích thước của các tượng cũng khá lớn. Việc giải quyết khối trong không  gian đã đạt đến một trình độ điêu luyện, đặc biệt là các tượng voi ngựa  cho thấy trình độ quan sát rất kỹ lưỡng cũng như một tay nghề tuyệt hảo.  Đồng thời, cùng với nghệ thuật điêu khắc chân dung được phát triển mạnh  trong các đình chùa, hay nhà thờ họ, thì trên các điêu khắc đá ở lăng  mộ tượng chân dung cũng vô cùng sinh động. Người ta có thể nhìn thấy ở  đây những sự nhận xét rất sắc sảo trong việc điêu khắc chân dung, tướng  mạo của các vị quan văn, quan võ hai bên tả hữu của một khu lăng mộ. Đây  cũng là tiền đề cho sự phát triển mạnh mẽ và quy củ hơn của nghệ thuật  điêu khắc lăng mộ thời Nguyễn ở Huế. Mặc dầu đứng trên giá trị nghệ  thuật mà nói tính chất dân gian trong các chạm khắc đá lăng mộ thời Lê  Trung Hưng cho thấy một tinh thần phóng khoáng hơn nhiều so với tính  chất khô lạnh của các điêu khắc lăng mộ giai đoạn sau. 
Chưa  kể đến, nghệ thuật thiết kế kiến trúc lăng mộ giai đoạn này còn mang  nhiều ý thức giải Hoa như sự biến báo của lối thiết kế trục đường thần  đạo của một công trình. Các hạng mục công trình như đền thờ và lăng mộ  không nhất thiết phải tạo ra trên một trục dọc, mà chúng tùy ứng theo  địa thế phong thủy. Tính chất đăng đối giả cũng được chú ý đến, khiến  cho các công trình điêu khắc này tạo ra những nét thú vị đặc biệt. 
Về đề tài chạm khắc ở các lăng mộ cũng rất phong phú, đa dạng những mô típ như khỉ, chuột, cá, chim cò, hoa cỏ được hiện diện ở khắp nơi dường như đã rời xa ảnh hưởng của Trung Hoa. Thế giới bên kia, nơi mà các chủ nhân của các ngôi mộ yên nghỉ đời đời được trang trí bằng các tác phẩm điêu khắc đá rất mềm mại, thuần Việt, thể hiện quan niệm “sống gửi thác về”. Nếu như các lăng mộ của giới quý tộc Trung Hoa biểu thị một sự uy nghiêm, cách bức với trần thế, thì các lăng mộ của Việt Nam dưới thời Lê Trung Hưng luôn gần gũi với những người còn sống: giữa đồng lúa nương dâu và bên cạnh các xóm làng bình yên.
Bên  cạnh những điêu khắc đá ở lăng mộ quý tộc, là hệ thống văn bia không  chỉ ở lăng mộ mà ở khắp các đền, đình, chùa chiền. Các văn bia thời Lê  Trung Hưng cũng cho thấy một trình độ điêu khắc rất đặc sắc. Các mô típ  trang trí trên diềm, hay trán bia thời này rất đa dạng. Không chỉ có  rồng chầu mặt nhật, nguyệt, mà còn xuất hiện rất nhiều các dạng như tiên  cưỡi rồng, hạc, phượng, thậm chí phía dưới chân bia còn có những hình  ảnh như tôm, cua, cá, hay khỉ… Xen lẫn vào đó là những biểu tượng tùng,  cúc, trúc mai của văn hóa Nho giáo. Điều này cho thấy tính chất giải Hoa  và tâm thức dân gian đậm nét. Chúng đồng thời bộc lộ ra tính cách tự do  phóng túng của người Việt trong việc tạo tác các hình thức biểu tượng,  mà đôi khi ưu điểm này lại trở thành nhược điểm bới tính tùy tiện của  các nghệ nhân dân gian. Đôi khi trên một số trán bia người ta còn thấy ở  đó tính chất trào lộng dân gian rất đậm nét được vận dụng theo kiểu  liên tưởng giữa biểu tượng và nghĩa chữ. Ví dụ trên một tấm bia phong  hầu thế kỷ XVII người ta đã khắc vào đó hình ảnh của một con ong (phong)  và một con khỉ (hầu), bên cạnh hai chữ phong hầu, hay trên một đồ án  khác lại có hình ảnh con khỉ cưỡi trên lưng ngựa có nghĩa là “thượng mã  phong hầu”[28] v.v. Những biểu tượng mang nghĩa chữ như vậy rất phổ biến trong nghệ thuật chạm khắc bia đá thời Lê – Trịnh. 
Biểu  tượng rồng trong nghệ thuật thời Lê - Trịnh cũng có những nét chuyển  biến nhất định. Nó đã kiến tạo nên những nét phóng túng là làm nên sự đa  dạng trong văn hóa Việt. Con rồng dường như được nhìn và thể hiện trên  nhiều góc độ khác nhau, lối chuyển động của mình rồng cũng vô cùng đa  dạng. Các mô típ rồng hóa mây, hóa lá, hóa trúc bắt đầu phát triển từ  thời Lê Sơ thì đến giai đoạn này đã tạo nên được những dạng vẻ vô cùng  phong phú. Trên các cốn, bẩy, đầu dư, hình tượng rồng như tràn vào đình  làng tạo thành biểu tượng của làng xã. Những con rồng không biểu tượng  cho vua nữa mà trở thành biểu tượng cho nền văn hóa nông nghiệp, biểu  tượng cho nguồn nước, cho nên ở giai đoạn thế kỷ XVII – XVIII, những con  rồng này chỉ có 3 đến 4 móng, mà không bao giờ xuất hiện dạng rồng năm  móng ở những chốn này. Sự xuất hiện của rồng đơn, rồng ổ, tiên cưỡi rồng  thổi sáo đánh đàn và rồng trong đám quần ngư tranh thực, hay được chạm  chung với cua, cá … đã trở thành một hình ảnh quen thuộc đối với hầu hết  những người dân. Người ta cũng bắt gặp những biểu tượng rồng được gắn  với biểu tượng của nghĩa chữ như trên các đồ án trên bia đá. Con rồng  với những đôi tai như những chiếc cánh dơi, đã trở thành biểu tượng của  điềm lành. Có lẽ đây chính là điểm đặc sắc nhất của nghệ thuật thời Lê  Trung Hưng, mà người ta có thể thấy được tính chất giải Hoa hoàn toàn  trên các biểu tượng con rồng. 
Ngoài  ra biểu tượng phượng cũng vậy, dường như không có bất kỳ tính quy chuẩn  nào cho những hình tượng này. Thậm chí ở một số di tích thuộc cấp quốc  gia như đền Vua Đinh, Gia Viễn, Ninh Bình, những con phượng được chạm  trên trán bia được hình dung như những con gà cồ. Hình ảnh kỳ lân (kỳ là  con đực, lân là con cái), nghê, hay ly, xô trên mái đình cũng như những  chạm khắc trong các đình làng là những con vật hư cấu có dạng vẻ gần  giống nhau đã được thể hiện vô cùng phong phú. Chúng vừa có những nét  học được từ biểu tượng sư tử vờn cầu của nghệ thuật Trung Hoa, nhưng  cũng ngay lập tức biến báo cho phù hợp với thẩm mỹ của người Việt. Như  vậy có thể nói bộ tứ linh vốn được nhập từ văn hóa Trung Hoa vào Việt  Nam, nhưng người Việt đã sáng tạo ra những biểu tượng, kiểu dạng tứ linh  của riêng mình và cũng đặt cho chúng những tên gọi khác nhau cho mình  mà không theo những mẫu thức có sẵn của Trung Hoa. 
Cùng  với di sản kiến trúc, chùa Bút Tháp còn có hệ thống tượng pháp được coi  là đỉnh cao của nghệ thuật Phật giáo và nghệ thuật điêu khắc tượng chân  dung của Việt Nam. Hàng loạt những tượng chân dung các vị hoàng thân  quốc thích hiện nay được đặt trong các ngai thờ nhà Tổ của chùa là một  minh chứng rất rõ rệt cho sự phát triển đỉnh cao của nghệ thuật điêu  khắc chân dung thế kỷ XVII. Không chỉ chân dung mà tính chân thực của  những trang phục được điêu khắc cũng giúp chúng ta hình dung được đời  sống vương phủ trước đây. Không chỉ thế, do các bà hoàng đã qui y Phật  pháp nên trên các đồ phục trang người ta thường thấy các vị có đội mũ  Quan Âm có gắn tượng đức Adiđà nhỏ ở phía trước mũ. Đây cũng là sáng tạo  độc đáo của các nghệ nhân dân gian. 
Những  pho tượng như Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn, hay tượng Tuyết Sơn, có thể  chịu ảnh hưởng một phần từ nghệ thuật điêu khắc Trung Hoa, nhưng nó đã  trở nên thuần Việt và dung dị. Trên gương mặt của các vị Phật này người  ta ít thấy tính chất lý tưởng hóa một cách khô cứng hay thị uy như nghệ  thuật Trung Hoa, mà là lòng từ, là sự gần gũi phổ độ chúng sinh. Đó cũng  là tinh thần của Phật giáo Việt Nam, nơi bất cứ người dân thường nào  cũng có thể tìm đến và san sẻ niềm đau nỗi khổ, tìm được những giây phút  thanh thản trong cõi lòng. 
3. Nghệ thuật gốm sứ  Lê Trung hưng cũng là một nét nổi bật của thời kỳ này. Dưới thời Lê  Trung hưng, do việc mở rộng giao thương, các thuyền buôn Anh, Hà Lan,  Nhật Bản giới quý tộc cũng đã dùng các đồ gốm sứ ngoại, do được biếu  tặng. Đặng tộc gia phả có ghi lại được bài thơ dâng đồ quý lên Trịnh  Cương gồm nậm rượu và ấm pha trà của Trung Hoa, đồ sứ Nhật Bản, đồ thủy  tinh Hòa Lan. Việc dùng đồ ngoại quốc tất nhiên là không loại trừ nhưng  chúng ta ai cũng biết rằng các chúa Trịnh đã cho người sang Trung Hoa  đặt làm rất nhiều chủng loại đồ sứ. Đồ sứ ấy gọi là đồ sứ ký kiểu. Nhà  chúa cũng ra qui định từ hoàng tử đến cac vương thân và quan lại đều  được dùng đồ ký kiểu Trung Hoa nhưng trừ những thứ vẽ rồng năm móng. Và  “để cho có những dấu ấn riêng biệt nhà Trịnh đã cho vẽ mẫu phong cảnh  đất Việt, trang trí hoa lá, thảo trùng Việt để dùng trong vương triều  mang tính dân tộc tự chủ cao”[29].  Điều này cho thấy mặc dầu dùng đồ Trung Hoa nhưng, không hề phụ thuộc  vào các sản phẩm đó, mà các chúa đã biết tạo ra cho mình một bản sắc  riêng. 
Theo  như giới nghiên cứu cũng như giới sành cổ ngoạn, thì đồ sứ ký kiểu thời  Lê – Trịnh được đánh giá cao, rất có giá trên thị trường cổ vật ở khu  vực và trên thế giới. 
.
.
Ngoài  ra trong các hình thức nghệ thuật giai đoạn này thì đồ gốm men lam đặc  biệt phát triển. Gốm men lam thời Lê Trung Hưng dường như đã được kế  thừa một thành quả to lớn từ kiểu dáng đến kỹ thuật gốm thời Mạc. Cốt  gốm dày thô, các kiểu đắp, khắc cũng được tận dụng như một lợi thế to  lớn trong việc tạo ra sự thay đổi trên cùng một sản phẩm gốm. Các hình  thức hoa văn trên các đĩa, lọ, chân đèn vốn đã khá phát triển vào thời  Mạc, thì nay thêm phần phóng túng. Có lẽ do sự ảnh hưởng của đồ sứ ký  kiểu nhập từ Trung Hoa, nên giai đoạn này xuất hiện khá nhiều những mẫu  hình kiểu Trung Hoa trên các sản phẩm này. Nó là sự pha trộn giữa thẩm  mỹ dân gian và thẩm mỹ cung đình, nhưng đồng thời trên chính các mẫu  thức này người ta lại thấy ý thức giải Hoa rất rõ ràng. Cùng là mô típ  họa tiết đó, nhưng các nghệ nhân đã cố tình thay đổi sao cho chúng có vẻ  thuần Việt. Những họa tiết như chim loan, chim trĩ, đặc biệt là các con  long mã dỡn sóng hay long mã đội chữ Thọ rất sinh động và có tính tượng  trưng cao độ. Đặc biệt hơn nữa là các dạng họa tiết như sen - cua hay  sen - uyên ương, rồi các mẫu cá trên các đĩa như thế một bức tranh khái  lược trên gốm.
Minh  văn cũng là một đặc trưng cho loại hình gốm thời Lê Trung Hưng, nó là  sự kế thừa phát triển từ thời Mạc. Không chỉ chữ Hán, mà người ta còn  khắc vẽ cả chữ Nôm lên các bình lọ gốm hay chân đèn thời này. Có rất  nhiều cách thức khắc vẽ chữ Hán Nôm lên gốm như khắc chìm đúc nổi, hoặc  khắc rồi phủ mem lên cũng có trường hợp viết bằng men trực tiếp lên cốt  gốm, nhưng đa phần lối khắc vẽ này thường theo dạng chữ chân phương,  dường như không thấy có trường hợp nào dùng lối chữ triện hay bố cục  khối chữ triện như trên đồ gốm sứ Trung Hoa. Những chữ đầu dòng thuộc  niên hiệu hay vương triều thường được khắc viết “đài” theo qui định tôn  kính giống như trên bia ký. Thậm chí lối viết tắt cũng chỉ thấy trong  các dạng văn tự Việt, như trường hợp hai chữ “Vạn” liền nhau, thì chữ  “vạn” thứ 2 được ký hiệu. Điều này không bao giờ xảy ra trong lối hành  văn Trung Hoa. Trên các lư hương thế kỷ XVII lối viết minh văn dưới đế  rất phổ biến, khác xa với lối viết minh văn của gốm Mạc trước đó[30]. 
Ngoài  ra giai đoạn này còn có thêm dạng men rạn kết hợp với rất nhiều những  hình đắp nổi đề tài tứ linh, tứ quí, cũng tạo nên những sản phẩm độc  đáo. Các dạng ấm con phượng hay chân đèn con nghê đội cũng cho người ta  thấy sự phát triển đến trình độ cao trong kỹ thuật gốm sứ giai đoạn này. 
4. Nghệ thuật âm nhạc và vũ đạo  thời Lê – Trịnh cũng có nhiều điểm đáng chú ý, thể hiện được một tinh  thần xây dựng một nền văn hóa thuần Việt, phi Hoa, đối thoại với Trung  Hoa. 
Với  âm nhạc, đó là một lối hát cửa quyền được diễn ra trong phủ chúa và các  dinh thự lớn. Biên chế dàn nhạc trong cung gồm: trúc sinh (đàn khô),  thiết huyền sắt, đàn cửu huyền, đàn thất huyền, đàn tranh. Phạm Đình Hổ  ghi nhận: “Tiếng hát trong cung trau chuốt, uyển chuyển, thanh nhã”[31]. 
Những  điệu hát ca trù cổ, tương truyền có từ thời Lê Trịnh như điệu Thét  nhạc, điệu Bắc phản đều dùng lời ca tiếng Việt (chữ Nôm) mà không dùng  lời chữ Hán. Trong dân gian, âm nhạc giáo phường rất thịnh hành. Theo  Phạm Đình Hổ, nhạc khí trong giáo phường đã rất phong phú, gồm: trường  trúc, trúc địch (tiêu), yêu cổ (trống cơm), đới cầm (đàn đáy), địch quản  (quyển nhị), phách, sênh, đan diện cổ (trống mảnh)[32]. 
Dưới  thời Lê Trung hưng, các chúa Trịnh cho tổ chức đội quân nhạc Bả lệnh  Ngũ quân có từ thời Lê Sơ thành ra đội Bả lệnh để “nắm giữ việc âm nhạc  trong phủ chúa và các tư gia”. “Quan phủ có việc cần đến hoặc các việc  tang tế trong dân gian đều do đội Bả lệnh làm”. Biên chế dàn nhạc của  đội Bả lệnh có: trống, mõ, trống phong yêu (trống tầm bông), xúy quản  (kèn), tiểu xúy quản (kèn tiểu), trùng quyển xúy quản (kèn tổ sâu)[33].
Nhận  xét về nghệ thuật nhà Trịnh, sách Mỹ thuật Châu Á viết: “Nghệ thuật nhà  Trịnh (1533 – 1789) được đánh dấu là từ cuối thế kỷ 16 bằng sự phát  triển các công trình tưởng nhớ tổ tiên và các anh hùng dân tộc …phục  hưng các công trình nghệ thuật cổ: Xu hướng “dân tộc” đã dẫn đến trong  các lĩnh vực trang trí điêu khắc, từ bỏ các đề tài chịu ảnh hưởng của  Trung Hoa, thay thế bằng một phong cách và quan niệm thẩm mỹ độc đáo hơn  với các hình dạng phức tạp hơn”[36].
Kết luận:
Kết luận:
1.  Từ thành tựu kinh tế, chính trị và ngoại giao các chúa Trịnh đã tỏ rõ ý  đồ xây dựng một nền văn hóa Đại Việt độc lập, trong thế phi Hoa, giải  Hoa, và đối thoại với Trung Hoa. 
2.  Ý chí đó của các chúa Trịnh đã được thể hiện trên nhiều lĩnh vực văn  hóa: Lễ nhạc và văn chương, kiến trúc, điêu khắc, gốm sứ, âm nhạc và vũ  đạo, trang phục, ẩm thực. Cách thể hiện ở mỗi lĩnh vực có khác nhau,  nhưng đã cho thấy rõ ràng ý đồ gây dựng nền văn hóa thuần Việt từ triều  đình, phủ chúa đến nhân dân, từ trong Kinh ra ngoài trấn, từ quan lại  đến bách tính. 
3.  Văn hóa Đại Việt dưới thời Lê – Trịnh do các chúa Trịnh dốc lòng khởi  xướng và thực hành đã để lại một di sản lớn cho đất nước, bao gồm cả di  sản văn hóa vật thể và phi vật thể. Nền văn hóa Đại Việt được gây dựng  dưới đời Lê Trung hưng là sản phẩm của một thời kỳ lịch sử đặc biệt, làm  nên sự khác biệt với các thời kỳ trước và sau đó. Sự khác biệt đó trước  hết là do các triều đại trước đó đã rập khuôn theo với Trung Hoa một  cách cứng nhắc mà không hề tính đến việc phải giải Hoa, đối thoại với  Trung Hoa, còn triều Nguyễn sau này thì rập khuôn máy móc theo Trung Hoa  và tước đoạt đi sự sáng tạo và tinh thần Việt phóng khoáng trên mỗi một  tác phẩm nghệ thuật. 
4.  Mặc dù đã có các công trình nghiên cứu, các hội thảo đánh giá về nhà  Trịnh nhưng nhiều vấn đề vẫn còn đang bỏ ngỏ, nhiều tư liệu chưa được  tập hợp, đánh giá khai thác để có thể tiếp thu và phát huy di sản văn  hóa của thời đại Lê Trung hưng trong thời đại mới. Vì thế, vấn đề văn  hóa và nghệ thuật Lê – Trịnh vẫn cần được nghiên cứu và thảo luận sâu  hơn nữa, để hiểu biết về thời đại Lê Trung hưng ngày càng được rõ ràng  và khoa học. 
.
.
Hà Nội, tháng 6 năm 2009.
Tài liệu tham khảo chính:
1.  Cẩm nang đồ gốm Việt Nam có minh văn thế kỷ XV – XIX. Nguyễn Đình  Chiến. Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam xuất bản, 1999, 225 tr.
2. Chúa Trịnh - Vị trí và vai trò lịch sử. Kỷ yếu Hội thảo khoa học. Ban Nghiên cứu và Biên soạn Lịch sử Thanh Hóa xuất bản, 1995.
3. Đại Việt sử ký toàn thư. 4 tập. Nxb KHXH, H, 1993.
4. Điêu khắc cổ Việt Nam. Phan Cẩm Thượng. Nxb Mỹ thuật, H, 1997.
5. Hình tượng con người trong chạm khắc cổ Việt Nam. Nhiều tác giả. ĐH Mỹ thuật Hà Nội xuất bản, 2002.
6. Họ Trịnh và Thăng Long. Bỉnh Di và Quang Vũ. Nxb. Văn hóa dân tộc, H, 2000. 187 tr.
7. Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Quốc sử quán triều Nguyễn. Hai tập. Nxb. Giáo dục, H, 1998.
8. Lịch sử và Nghệ thuật Ca trù. Nguyễn Xuân Diện. Nxb. Thế Giới, H, 2007, 210 tr.
9. Lịch triều hiến chương loại chí . Phan Huy Chú. 2 tập. Nxb. Giáo dục, H, 2007.
10. Nghiên cứu tư tưởng Nho gia Việt Nam từ hướng tiếp cận liên ngành. Nhiều tác giả. Nxb. Thế giới, 2009. 858 tr.
11. Những đại lễ và vũ khúc của vua chúa Việt Nam. Đỗ Bằng Đoàn - Đỗ Trọng Huề. Bản in lại . Nxb.Văn học , H. 1992.
12. Tháp Cửu phẩm liên hoa trong kiến trúc cổ Việt Nam. Trang Thanh Hiền. Nxb. Thế Giới, H, 2006.
13. Tìm hiểu kho sách Hán Nôm. Tập I. Trần Văn Giáp. Nxb. Văn hóa, H. 1984.
14. Tìm hiểu kho sách Hán Nôm. Tập II. Trần Văn Giáp. Nxb. KHXH, H. 1990.
15. Tổng tập Văn học Nôm. Tập II. Nguyễn Tá Nhí chủ biên. Nxb. KHXH, H, 2008, 717 tr.
16. Tổng tập Văn học Việt Nam. Tập 5. Bùi Duy Tân chủ biên. Nxb. KHXH, H, 2000.
17. Trang phục triều Lê – Trịnh. Họa sĩ Trịnh Quang Vũ. Nxb. Từ điển Bách khoa, H, 2008.
18. Trịnh Sâm cuộc đời và sự nghiệp. Nhiều tác giả. Nxb. Văn hóa thông tin, H, 2009. 315 tr.
19. Từ điển Nhân vật lịch sử Việt Nam Nguyễn Q. Thắng - Nguyễn Bá Thế. Nxb. KHXH, H. 1991.
20. Từ điển tác gia văn hóa Việt Nam. Nguyễn Quang Thắng.. Nxb. Văn hóa Thông tin, H. 1999.
21. Tuyển tập Thơ Ca trù. Ngô Linh Ngọc - Ngô Văn Phú:. Nxb. Văn học, H. 1987.
22. Việt Nam ca trù biên khảo. Đỗ Bằng Đoàn - Đỗ Trọng Huề. Sài Gòn, 1962.
23. Vũ trung tùy bút. Phạm Đình Hổ. Trần Thị Kim Anh khảo cứu văn bản, dịch, chú thích và giới thiệu. Nxb. KHXH, H. 2003. 503 tr.
2. Chúa Trịnh - Vị trí và vai trò lịch sử. Kỷ yếu Hội thảo khoa học. Ban Nghiên cứu và Biên soạn Lịch sử Thanh Hóa xuất bản, 1995.
3. Đại Việt sử ký toàn thư. 4 tập. Nxb KHXH, H, 1993.
4. Điêu khắc cổ Việt Nam. Phan Cẩm Thượng. Nxb Mỹ thuật, H, 1997.
5. Hình tượng con người trong chạm khắc cổ Việt Nam. Nhiều tác giả. ĐH Mỹ thuật Hà Nội xuất bản, 2002.
6. Họ Trịnh và Thăng Long. Bỉnh Di và Quang Vũ. Nxb. Văn hóa dân tộc, H, 2000. 187 tr.
7. Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Quốc sử quán triều Nguyễn. Hai tập. Nxb. Giáo dục, H, 1998.
8. Lịch sử và Nghệ thuật Ca trù. Nguyễn Xuân Diện. Nxb. Thế Giới, H, 2007, 210 tr.
9. Lịch triều hiến chương loại chí . Phan Huy Chú. 2 tập. Nxb. Giáo dục, H, 2007.
10. Nghiên cứu tư tưởng Nho gia Việt Nam từ hướng tiếp cận liên ngành. Nhiều tác giả. Nxb. Thế giới, 2009. 858 tr.
11. Những đại lễ và vũ khúc của vua chúa Việt Nam. Đỗ Bằng Đoàn - Đỗ Trọng Huề. Bản in lại . Nxb.Văn học , H. 1992.
12. Tháp Cửu phẩm liên hoa trong kiến trúc cổ Việt Nam. Trang Thanh Hiền. Nxb. Thế Giới, H, 2006.
13. Tìm hiểu kho sách Hán Nôm. Tập I. Trần Văn Giáp. Nxb. Văn hóa, H. 1984.
14. Tìm hiểu kho sách Hán Nôm. Tập II. Trần Văn Giáp. Nxb. KHXH, H. 1990.
15. Tổng tập Văn học Nôm. Tập II. Nguyễn Tá Nhí chủ biên. Nxb. KHXH, H, 2008, 717 tr.
16. Tổng tập Văn học Việt Nam. Tập 5. Bùi Duy Tân chủ biên. Nxb. KHXH, H, 2000.
17. Trang phục triều Lê – Trịnh. Họa sĩ Trịnh Quang Vũ. Nxb. Từ điển Bách khoa, H, 2008.
18. Trịnh Sâm cuộc đời và sự nghiệp. Nhiều tác giả. Nxb. Văn hóa thông tin, H, 2009. 315 tr.
19. Từ điển Nhân vật lịch sử Việt Nam Nguyễn Q. Thắng - Nguyễn Bá Thế. Nxb. KHXH, H. 1991.
20. Từ điển tác gia văn hóa Việt Nam. Nguyễn Quang Thắng.. Nxb. Văn hóa Thông tin, H. 1999.
21. Tuyển tập Thơ Ca trù. Ngô Linh Ngọc - Ngô Văn Phú:. Nxb. Văn học, H. 1987.
22. Việt Nam ca trù biên khảo. Đỗ Bằng Đoàn - Đỗ Trọng Huề. Sài Gòn, 1962.
23. Vũ trung tùy bút. Phạm Đình Hổ. Trần Thị Kim Anh khảo cứu văn bản, dịch, chú thích và giới thiệu. Nxb. KHXH, H. 2003. 503 tr.
CHÚ THÍCH:
[1] Trần Ngọc Vương, với bài Lưỡng đầu chế thời Lê Trịnh và những hệ quả lịch sử của nó, in trong sách Nghiên cứu tư tưởng Nho gia Việt Nam từ hướng tiếp cận liên ngành. Nxb. Thế giới, 2009, tr. 630-657; và Bùi Thiết với bài Thử lý giải hiện tượng song trùng quyền lực vua Lê – chúa Trịnh trong lịch sử Việt Nam, in trong sách Trịnh Sâm cuộc đời và sự nghiệp. Nxb. VHTT, H, 2009, tr.103-107.[2] Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Bản dịch. Tập Hai. Nxb. Giáo dục, H, 1998. tr. 466.[3] Lịch triều hiến chương loại chí. Phan Huy Chú. Tập Hai. Nxb. Giáo dục, H. 2007, tr. 139 – 140.[4] Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Bản dịch. Tập Hai. Nxb. Giáo dục, H, 1998. tr. 258.[5] Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Bản dịch. Tập Hai. Nxb. Giáo dục, H, 1998. tr. 262.[6] Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Bản dịch. Tập Hai. Nxb. Giáo dục, H, 1998. tr. 416.[7] Bỉnh Di và Quang Vũ: Họ Trịnh và Thăng Long. Nxb. Văn hóa dân tộc. H, 2000, tr. 84-85.[8] Nguyễn Xuân Diện và Đinh Thanh Hiếu: Về năm bản nhạc chương Nôm đời Lê. Tạp chí Hán Nôm số 4 (45) – 2000, tr. 62 – 72.[9] Tổng tập Văn học Nôm. Tập 2. Nguyễn Tá Nhí chủ biên. Nxb. KHXH, H, 2008, tr.20-21.[10] Tổng tập Văn học Nôm. Nguyễn Tá Nhí chủ biên. Nxb. KHXH, H, 2009.[11] Nguyễn Xuân Diện Về bài Ngự chế Quốc âm từ khúc của Trịnh Sâm trong sách Bình Ninh thực lục. Tạp chí Hán Nôm số 1 (62) – 2004, tr. 68 – 73.[12] Các tác giả của Việt Nam ca trù biên khảo dẫn sách Ca trù bị khảo, cho rằng “Lối Thổng do chúa Trịnh đặt ra nên gọi là Thổng cửa quyền”(sdd, tr.67). Hiện nay chưa tìm được tài liệu Hán Nôm nào khẳng định chúa Trịnh (Trịnh Sâm) là người sáng tạo ra điệu Thổng trong ca trù. Và hiện cũng chưa tìm được cuốn Ca trù bị khảo mà Việt Nam ca trù biên khảo dẫn.[13] Trịnh Sâm cuộc đời và sự nghiệp. Nxb. VHTT, H, tr. 194 – 203.[14] Xem: Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa. Trần Xuân Ngọc Lan phiên âm và chú giải, Nxb. KHXH, H, 1985, 260 tr. Và bài Thông tin mới nhất về Chỉ nam ngọc âm của Ngô Đức Thọ trên tạp chí Hán Nôm số 3 (70) – 2005, tr 25-35. Ngoài ra, các tác giả Trần Văn Giáp (1969), Hoa Bằng (1971), Nguyễn Tài Cẩn (1985), Đào Duy Anh (1975), Lê Văn Quán (1981) cũng có các nhận xét và nghiên cứu về văn bản Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa.[15] Tổng tập Văn học Việt Nam. Tập 6. Nxb. KHXH, Hà Nội, 2000, tr. 16.[16] Lê triều chiếu lệnh thiện chính. Bản chữ Hán A.257. Dẫn theo Tổng tập Văn học Việt Nam. Tập 6. Nxb. KHXH, Hà Nội, 2000, tr. 16-17.[17] Tổng tập Văn học Việt Nam. Tập 6. Nxb. KHXH, Hà Nội, 2000, tr. 17.[18] Tổng tập Văn học Việt Nam. Tập 6. Nxb. KHXH, Hà Nội, 2000, tr. 17.[19] Xem: Họ Trịnh và Thăng Long của Bỉnh Di và Quang Vũ. Nxb. VHDT, H.2000, tr. 94-95.[20] Bình Di và Quang Vũ: Họ Trịnh và Thăng Long. Nxb. Văn hóa dân tộc, H, 2000, tr. 113.[21] Phạm Đình Hổ: Vũ trung tùy bút. Trần Thị Kim Anh khảo cứu văn bản, dịch, chú thích và giới thiệu. Nxb. KHXH, H. 2003, tr. 208.[22] Bỉnh Di và Quang Vũ: Họ Trịnh và Thăng Long. Nxb Văn hóa dân tộc, H, 2000, tr. 144.[23] Phạm Đình Hổ: Vũ trung tùy bút. Trần Thị Kim Anh khảo cứu văn bản, dịch, chú thích và giới thiệu. Nxb. KHXH, H. 2003, tr. 36-37.[24] Nguyễn Duy Hinh: Yếu tố Hoa – Việt trong kiến trúc chùa chiền Việt Nam. In trong sách Bước đầu tìm hiểu sự tiếp xúc và giao lưu văn hóa Việt – Hoa trong lịch sử. Nxb. Thế giới, H, 1988. tr. 129 – 148.[25] Trang Thanh Hiền: Tháp Cửu phẩm liên hoa trong kiến trúc cổ Việt Nam. Nxb. Thế Giới, H, 2006.[26] Phan Cẩm Thượng: Chùa Bút Tháp. Nxb Mỹ thuật, H, 1996.[27] Nguyễn Khắc Tụng: Nhận biết yếu tố Hoa – Việt trong kiến trúc nhà ở cổ truyền của người Việt và ngược lại. In trong sách Bước đầu tìm hiểu sự tiếp xúc và giao lưu văn hóa Việt – Hoa trong lịch sử. Nxb. Thế giới, H, 1988. tr. 122.[28] Trần Hậu Yên Thế: Lời thuyết minh trong triển lãm Các phương pháp nghiên cứu mỹ thuật cổ. ĐH Mỹ thuật, tháng 4 năm 2009.[29] Bình Di và Quang Vũ: Họ Trịnh và Thăng Long. Nxb Văn hóa dân tộc, H, 2000, tr. 150.[30] Nguyễn Đình Chiến: Cẩm nang đồ gốm Việt Nam có minh văn thế kỷ XV – XIX, Bảo tàng lịch sử Việt Nam, H 1999.[31] Phạm Đình Hổ: Vũ trung tùy bút. Trần Thị Kim Anh khảo cứu văn bản, dịch, chú thích và giới thiệu. Nxb. KHXH, H. 2003, tr. 85.[32] Phạm Đình Hổ: Vũ trung tùy bút. Trần Thị Kim Anh khảo cứu văn bản, dịch, chú thích và giới thiệu. Nxb. KHXH, H. 2003, tr. 83 – 84.[33] Phạm Đình Hổ: Vũ trung tùy bút. Trần Thị Kim Anh khảo cứu văn bản, dịch, chú thích và giới thiệu. Nxb. KHXH, H. 2003, tr. 81 – 82 và 85 - 86.[34] Trịnh Quang Vũ: Trang phục triều Lê – Trịnh. Nxb. Từ điển Bách khoa, H. 2008. 363 tr.[35] Xem bài Chúa Trịnh Sâm nâng cao nghệ thuật trà Việt của Trương Thị Kim Dung, in trong sách Trịnh Sâm cuộc đời và sự nghiệp. Nxb. VHTT, H. 2009, tr. 248- 253.[36] Dẫn theo Trịnh Quang Vũ: Trang phục triều Lê – Trịnh. Nxb. Từ điển Bách khoa, H. 2008. tr. 10.
*Bài đã đăng trên tạp chí Văn hóa Dân gian. 





Yoshiharu Tsuboi đã có một "Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa" tại sao Nguyễn Xuân Diện không có một "Nước Đại đối thoại với Trung Hoa"?
Trả lờiXóahay quá bác Diện, nếu có vài tranh ảnh minh họa nữa thì tuyệt!!
Trả lờiXóaNgày nay chúng ta cũng có làng Hoa,phố Hoa,công trường Hoa,Vạn lý trường thành Hoa,phim Hoa,đèn lồng Hoa...Hoa cả mắt vì Vàng
Trả lờiXóaCảm ơn bác Diện đã gở oan cho dòng họ Trịnh của em, trong sách giáo khoa thì toàn thấy nói xấu chúa Trịnh.
Trả lờiXóabác ẩn danh 16:12 nói: "Cảm ơn bác Diện đã gỡ oan cho dòng họ Trịnh của em, trong sách giáo khoa thì toàn thấy nói xấu chúa Trịnh."
Trả lờiXóaBác họ Trịnh ơi! Tôi kinh ngạc khi đọc bài viết trên của hai bác Diện+Hiền. (Mà bác họ Trịnh quên cám ơn cô Hiền nhé!).
Nào giờ tôi cũng chỉ quan tâm đến Vua Lê và Chúa Nguyễn, nhiều khi quên bẵng đi (nếu không nói và ít thiện cảm với) các Chúa Trịnh! Thật là bất công, vì mình có chịu tìm hiều gì đâu về công lao của các Chúa Trịnh!
Xin lỗi bác (và các bác) họ Trịnh. Và xin rất cám ơn "thầy cô online của tôi" - thầy Nguyễn Xuân Diện và cô Trang Thanh Hiền!
Bác Ha Le ơi,
Trả lờiXóaCả ngày hôm nay, tôi ngóng COMMENTS của Bác. Mãi không thấy, cứ tưởng Bác ốm. Hi hii. Giờ thì mừng rồi!
Bác đừng gọi chúng tôi là thầy cô, tổn thọ lắm. Chúng tôi còn rất ít tuổi mà!
Kính thơ
Lâm Khang
Sự khác biệt của mỗi dân tộc chính là văn hoá. Nước ta đã phải chịu hàng ngàn năm Bắc thuộc, sự ảnh hưởng văn hoá Trung Hoa là không tránh khỏi, nhưng nhờ ý thức dân tộc mà ta vẫn giữ vững được nền độc lập. Bài viết của TS Nguyễn Xuân Diện đã chứng minh ý thức dân tộc ấy của một giai đoạn lịch sử. Bài nghiên cứu khá sâu sắc và thuyết phục. Qua đây cho ta hiểu rõ ý thức độc lập dân tộc của ông cha ta...Đọc bài này tôi thấy ngậm ngùi và buồn cho những kẻ mang danh lãnh đạo mà đến bây giờ vẫn muốn du nhập văn hoá Trung Hoa (như treo đèn lồng ở TP Lào Cai) đến nỗi người dân thường cũng nhận ra và phản ứng! Đây là kém hiểu biết chính trị hay cố tình muốn quay lại chịu sự nô dịch của ngoại bang một lần nữa?
Trả lờiXóaTui ngày mô cũng vô theo dõi và commets đều đặn.Răng không hỏi tui có ốm không giận đó he.Tui không gọi là thầy cô mô mà tui gọi là cô thầy có được không?
Trả lờiXóaThưa bác Khách ẩn danh.
Trả lờiXóaBác ghé thăm hiên trà, chẳng đưa danh thiếp, chẳng xưng danh xưng giá, Tễu chẳng biết ai cả. Nên bác ốm mà Tễu ko hỏi thăm được. Vì, lỡ hỏi thăm, thì vô số bác Khách Ẩn danh khác lại tưởng Tễu xỏ xiên gì thì toi!
Hì hì
ký tên
T-Ễ_U
Cảm ơn bác Diện nhé, có lẽ cháu phải đem in cái bài này rồi phát cho những người Họ Trịnh mới được. Quãng lịch sử Việt Nam hơn 200 năm Chúa Trịnh có vẻ ít khi được bàn tới. Bác Diện khi nào rỗi thì có thể viết thêm về thời kì này được không? Xin cảm ơn.
Trả lờiXóaĐa tạ tình tri âm của bác Diện. Tôi cảm động và vui lắm.
Trả lờiXóaTôi đang làm công việc dọn dẹp văn phòng, nói nôm na là lao công vệ sinh ý, ở ngay tỗng hành dinh của ông vua không ngai Bill Gates. Hic, nếu mà tình cảnh quê hương cứ buồn mãi thì tôi đến phát ốm thật và chết sớm ở đất khách quê người này chứ chẳng chơi đâu! (hồng kịp lãnh tìền hưu, hu hu).
Cơ mà tôi cứ nghĩ số phận oái oăm! Sao Trời không cho tôi làm chân lao công ở Thư viện Hán Nôm chỗ bác Diện hay ở Bảo tàng Bình Định chỗ bác Hảo nhỉ? Bảo đảm là tôi nâng như nâng trứng hứng như hứng hoa từng trang sách cổ, từng di vật tiền nhân ý, dù một hạt bụi làm lu mờ đi tôi cũng ráng lau cho đến sạch bóng thì thôi!
Hic, khi nào Thư viện có "biên chế" một chân lau chùi quét dọn, bác Diện hú tôi một tiếng để tôi thử "áp plai" nhé. Ở bên này tôi nồi tiếng là nhỏ con bằng nửa người ta nhưng làm việc giỏi gấp đôi người ta đấy. Tôi quyết sống làm sao để mọi sắc dân ở đất Hiệp Chủng quốc này hễ nghe tới người Việt Nam là tắc lưỡi khen thầm và nghiêng mình kính trọng. "Ngoại giao nhân dân" mà lị!
Ôi anh linh tiên tổ ơi, xin độ trì tất cả chúng con ở bước gian nan thử thách này!
Bài hay quá. Không rõ từ lúc nào thì giai đoạn lịch sử Lê - Trịnh bị sách vở bóp méo và xuyên tạc nhỉ?
Trả lờiXóaTheo tôi thì cuộc phân ly Bắc-Nam giữa chúa Trịnh và chúa Nguyễn, mặc dù là một nguyên nhân khiến bờ cõi mở mang mạnh về phía Nam, đã gây thiệt hại lớn lao về nhiều mặt (nhân lực, kinh tế...) cho Đại Việt, nhưng thiệt hại sâu xa nhất là gây nên sự ly tán giữa lòng dân Việt mà hậu quả còn kéo rất dài về sau. Mối đoàn kết của dân tộc bị vỡ toang từ đó.
XóaSau nhiều thế kỷ biến loạn, đến lượt Nguyễn Ánh, hậu duệ của chúa Nguyễn Hoàng, thống nhất đất nước. Mối thù cũ với nhà Trịnh có thể là nguyên do khiến sử sách thời Nguyễn muốn chối bỏ và xóa sạch công lao của các chúa Trịnh. Và có thể còn một lý do chính trị thực tiễn nữa: sợ ngôi báu bị lung lay, triều nhà Nguyễn kể tự đời Gia Long trở đi chắc chắn không thích cái mô hình "lưỡng đầu chế" thời Lê Trung hưng rồi, cho nên dễ dàng xem nhà Trịnh chỉ là đám kiêu quan kiêu binh lạm quyền.
Tôi rất chú ý đến đoạn này:
Trả lờiXóa"Về đề tài chạm khắc ở các lăng mộ cũng rất phong phú, đa dạng những mô típ như khỉ, chuột, cá, chim cò, hoa cỏ được hiện diện ở khắp nơi dường như đã rời xa ảnh hưởng của Trung Hoa. Thế giới bên kia, nơi mà các chủ nhân của các ngôi mộ yên nghỉ đời đời được trang trí bằng các tác phẩm điêu khắc đá rất mềm mại, thuần Việt, thể hiện quan niệm “sống gửi thác về”. Nếu như các lăng mộ của giới quý tộc Trung Hoa biểu thị một sự uy nghiêm, cách bức với trần thế, thì các lăng mộ của Việt Nam dưới thời Lê Trung Hưng luôn gần gũi với những người còn sống: giữa đồng lúa nương dâu và bên cạnh các xóm làng bình yên."
Theo tôi, "quan niệm về thế giới bên kia" là một trong những nội dung sâu thẳm nhất của điều mà ta gọi là "dân tộc tính". Những câu hỏi mang tính triết lý kiểu như 'con người từ đâu đến và chết rồi sẽ đi về đâu?' thì đều được các dân tộc đặt ra ngay từ lúc ban sơ của nền văn hóa mình. Có thể nói mà không sợ sai rằng: Văn hóa của loài người nói chung, cách riêng của từng dân tộc, chỉ có thể bắt đầu từ khi biết đặt ra những câu hỏi như thế. Đó là "những khắc khoải siêu hình" của riêng giống người, điều mà dường như các loài sinh vật khác không có. Và, câu trả lời của mỗi dân tộc định hình nên tính cách độc đáo, đặc thù của dân tộc đó.
Sự khác biệt giữa Việt và Hoa trong cách trang trí lăng mộ nói trên, tôi nghĩ đó là sự khác biệt tự căn bản và tự ban sơ giữa văn hóa Việt tộc và văn hóa Hoa tộc. Thành ra nói hai chữ "giải Hoa" tôi e rằng chưa đủ mạnh, có thể gây hiểu nhầm rằng chỉ là cố gắng "thoát Hoa" để tìm lối thoát mới. Có lẽ chính xác hơn, phải nói rằng văn hóa Việt tộc vẫn mạnh mẽ sống, một cách kỳ diệu và một cách ngấm ngầm, bất chấp hàng thế kỷ bị người Hoa đô hộ hà khắc, bất chấp bao mưu toan thâm độc của kẻ thù muốn xóa sổ nó. Phải là một nền văn hóa rất mạnh mẽ mới có thể chịu đựng thử thách ghê gớm kéo dài đến thế, để rồi đến thời độc lập lại bừng lên rực rỡ.
Tôi vẫn tin rằng rồi đây con dân Việt tộc sẽ tìm lại được cội nguồn mình, làm nên một cuộc "tập đại thành" mới, như thời Lê Trung hưng đã từng.
Triều Lê Trịnh là cái vô tình nhưng là cái hay của Lịch sử Đại Việt . Nó cũng có thể so sánh với chế độ ở Vương Quốc Anh . Vua chỉ là đại diện cho quốc gia, Chúa là vị thủ tướng . Hoặc như chế độ tướng quân một thời ở Nhật . Lão trượng Trình Quốc Công Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ phán một câu rất hay mà họ Trịnh muôn đời chỉ là Chúa , chứ không là vua . Cái nhìn về họ Trịnh sau này phần lớn dưới lăng kính sử sách đời Nguyễn cho nên các công lao của họ Trịnh ít được nhắc đến. Hơn nữa vì VN chiến tranh quá lâu, những nghiên cứu về sử sách chưa thể triển khai hết nên con cháu chưa có cái nhìn khách quan về họ Trịnh .
Trả lờiXóaRất mong Ts NXD và phu nhân tiếp tục nghiên cứu công bố thêm những tư liệu lịch sử về triều đại này . Có lẽ là triều đại tồn tại lâu bậc nhất trong lịch sử nước ta .
Cảm ơn 2 tác giả. Mình cũng lơ mơ về lịch sử, Hán Nôm mù tịt, nên với các nhà Sử học là cứ "Kính nhi viễn chi". Nhưng mình thường có ác cảm với các chúa TRịnh, vì "Phù Lê diệt Mạc" và khi chiếm Thăng Long thì ác quá: giết hết, đốt hết. Cả thành phố Dương Kinh bị san bằng. Tệ nhất là "chỉ đạo" các sử gia gọi nhà Mạc là "ngụy triều" và bôi đen ghê quá...Hơn 20 năm nay, có nhiều công trình nghiên cứu minh oan cho nhà Mạc "lấy lại công minh lịch sử và công bằng xã hội cho nhà Mạc" (GS Văn Tạo); "Từ những hội thảo và những kết quả nghiên cứu khoa học mới, nhận thức về vương triền Mạc và thời kỳ nhà Mạc trong lịch sử dân tộc đã hoàn toàn thay đổi" (GS Phan Huy Lê). Nhà Mạc được đánh giá lại, nhưng đôi khi để minh oan cho nhà Mạc lại phê phán họ Trịnh,,, như thế cũng không khách quan, công bằng lịch sử. Nay đọc bài này càng thấy nhận xét về tiền nhân phải rất cẩn trọng. Và có một điểm chung là VN tồn tại đến ông cha ta thật là tài giỏi...
Trả lờiXóaKHÉO THAY, CON TẠO XOAY VẦN, HAY THEO ĐỊA LÝ THÌ CÁI THẾ ĐẤT LƯỠNG ĐẦU CHẾ CỦA VIỆT NAM VẪN CÒN, CÁC BẠN CHỊU KHÓ SUY NGẪM MÀ XEM, RỒI RÚT RA CHIÊM NGHIỆM CŨNG HAY, CŨNG THÚ VỊ LẮM.
Trả lờiXóaĐÓ LÀ GÌ
LÀ THẾ ĐẤT VIỆT TỪ NGÀY ĐỘC LẬP LUÔN LÀ LƯỠNG ĐẦU CHẾ,
+ NHÀ TRẦN -và nhà HỒ THÌ CÓ VUA- LẠI CÓ THÁI THƯỢNG HOÀNG CÙNG TRỊ NƯỚC 9 MÀ QUYỀN THẬT LÀ Ở THÁI THƯỢNG HOÀNG- RẤT KHÁC TRUNG HOA).
+TRIỀU HẬU LÊ- VỚI VUA LÊ -CHÚA TRỊNH
+HIỆN TẠI - TỔNG BÍ THƯ- CHỦ TICH NƯỚC ( RẤT KHÁC TRUNG HOA).
Tôi học về hội họa nên thường"ăn nằm" và nghiên cứu tương đối kỹ về kiến trúc và điêu khắc chùa Tây Phương, chữ Sùng Phúc Tự. Đến giờ phút này tôi có thể khẳng định chắc chắn rằng nó là ngôi chùa đẹp nhất TG theo tinh thần Phật Giáo. Nó giống với các hành vi bố thí cao cả của đức Phật đc ghi trong kinh Hiền Ngu, nó giống với các ý tưởng triết lý sâu xa của ngài Tu Bồ Đề trong kinh Bát Nhã, nó rất vô thường xong lại rất thường hằng. Về mặt điêu khắc các bức tượng đăng kế tổ và kim cương là tuyệt đỉnh về tạo hình. Riêng đối với tượng thái tử Kỳ Đà nó có thể sánh ngang với các tác phẩm của Michelangelo. Rất nghệ thuật và tình cảm, lại có một cái gì đó rất sang trọng, quý phái như Phật Giáo.
Trả lờiXóaAnh Diện cho hỏi bài này đăng ở TC VHDG số mấy năm 2009? trang mấy? vì em muon trích dẫn cho cụ thể. cảm ơn anh.
Trả lờiXóa