AI VIẾT GIA HUẤN CA?
(có phải là Nguyễn Trãi viết không?)
(có phải là Nguyễn Trãi viết không?)
Hoàng Văn Lâu
Xem  ra vấn đề cũng không đơn giản. Bởi vì, dù về tư tưởng tác  phẩm, nội  dung hiện thực mà nó phản ánh hay hình thức ngôn ngữ văn  chương mà nó  biểu hiện có mâu thuẫn với con người Nguyễn Trãi hay thời  đại Nguyễn  Trãi, thì người ta vẫn có thể quan niệm như tác giả của  Thi văn Việt Nam  cách đây hơn 30 năm: “Nếu thật  {Gia huấn ca}    là của ông {Nguyễn Trãi} soạn thì sự sao đi chép lại bởi người đời  sau  và nhất là đời Nguyễn đã làm cho phần văn cổ đã bị sửa chữa nhiều   rồi”(11). Và mặc dù trong các thư tịch cũ, không thấy đâu nói tới một  Gia huấn ca  nào của Nguyễn Trãi, nhưng Dương Bá Cung có nói Nguyễn Trãi viết  Ngọc đường di phạm(12) thì người ta vẫn có quyền đặt câu hỏi: phải chăng có thể tìm thấy một chút bóng dáng của nó trong  Gia huấn ca  hay một phần của  Gia huấn ca.
Như vậy, việc tìm tác giả “đích thực” cho sách này quả là có sự cần thiết nhất định. Nhưng, như các nhà nghiên cứu đã chỉ rõ:  Gia huấn ca    là một tập hợp 6 bài ca theo chủ điểm giáo dục gia đình mà bất luận về   nội dung tư tưởng hay hình thức ngôn ngữ văn chương đều chứng tỏ chúng   không phải do một tác giả soạn ra. Chúng tôi tán thành “dự đoán”khoa  học  này, Nhân tiện, xin nói thêm: hai bài cuối, bài ca thứ 5  Dạy học trò ở cho phải đạo  và bài thứ sáu  Khuyên học trò phải chăm học,  đều là những “lời thầy dạy” đối với “những kẻ học trò” ở “trước của khổng” thì đã vượt ra ngoài phạm vi “gia huấn ca” rồi.
 Chúng tôi đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi được nêu từ kho thư tịch và tư liệu Hán Nôm. Bài đầu tiên trong số 6 bài của  Gia huấn ca    được chép trong một văn bản chép tay, ký hiệu AB.532 thuộc kho sách  của  Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Sách này có tên ghi ở ngoài bìa là  Khuyết hiến ca,  gồm 44 trang, khổ 20x13, sách đã cũ, chữ viết có chỗ đã mờ. Trong sách chép ba tác phẩm Nôm:  Khuyết hiếu ca, Trường hận ca  (bản dịch Nôm) và  Cảnh Phụ Châm. Cảnh phụ châm  gồm 26 bài trang cuối là toàn bộ bài ca thứ nhất của  Gia huấn ca  mà trong  Lê triều Nguyễn tướng công Gia huấn ca  có tên là  Bài ca dạy vợ dạy con.  Điều đáng chú ý là bản này còn giữ lại được lời chú, một  Nguyên tự  của tác giả và một bài  Bạt  ở cuối sách. Lời ghi chú viết rằng: “đoạn nói về đạo Phật trong  Phụ châm  (tức cảnh phụ châm) thì những tu thiền chưa chắc đều đã thế cả, độc giả cũng đừng vì thế mà chê cười họ”. Nhận thấy bài Nguyên tự  có thể soi sáng rất nhiều về lai lịch văn bản và về tác giả, chúng tôi xin dịch giới thiệu toàn bộ dưới đây:
“Việc  giáo dục là không thể thiếu được. Người không phải dạy mà  hiểu biết  mọi điều là nhất rồi. Nhưng trong thiên hạ thì những người tài  năng vào  loại trung bình là nhiều hơn cả. Cho nên không thể không có  giáo dục.  Đến như bọn học trò, từ tuổi nhi đồng lên bảy, đều được theo  học, mà  những phương pháp dạy bảo bọn chúng thì cũng chứa đầy trong sách  vở cả  rồi, chẳng cần ta phải thừa lời nói nhàm. Còn như khách quần thoa  son  phấn, mà chịu để sức xem xét, ra công trước thuật như nàng Thái, ả  Tạ  thì thực là hiếm lắm. Đối với bọn họ lại càng không thể không giáo  dục.  Nhưng nếu như chữ nghĩa trúc trắc, giọng văn cao xa, thì lại không  thể  nhớ mà ngâm nga được. {Cho nên}, nhân lúc dạy học rỗi rãi. {ta} nhặt   nhạnh những câu cách ngôn cổ và những câu ca dao, tục ngữ bằng quốc ngữ   có thể làm lời khuyên răn được, sắp thành hơn 40 điều diễn ra quốc âm   để làm chân ngôn cho bọn đàn bà con gái. Nhân thế mới đặt tên là “Phụ   châm”. Ta nghĩ rằng: bản thân mình đúng đắn thì không bắt buộc mà người   ta vẫn theo, nếu bản thân mình không chính đáng thì làm sao mà sửa lỗi   cho người khác? Quá trình tự tu dưỡng của ta rất thiếu sót. Đã định sửa   bỏ lỗi lầm mà vẫn chưa xong thì lấy gì mà dạy người khác? Nhưng rồi  lại  tự nghĩ rằng: có đạo làm cha mẹ là có trách nhiệm với cả gia đình,  {như  thế} thì {ta} lại là tấm gương mà cả nhà trông vào, phải làm cho  cả nhà  kính phục mà hiểu đạo tôi con, chứ đâu chỉ là việc dạy dỗ? Cho  nên, ta  quên mình gàn dở, hủ lậu, viết ra thành lời để dạy những người  trong  nhà, chỉ là lời châm riêng cho một gia đình ta truyền nhau học  tập thôi”  (Phụ châm nguyên tự: “Thậm hĩ. Thiên hạ duy trung tài tối đa.  Thị dĩ  bất khả vô giáo. Thả như tử đệ bối trung tự nhất tuế thành đồng  mạc bất  hữu học. Sở dĩ giáo tri chi đạo ư thư vô dư uẩn hĩ, hựu phi dư  chi sở  tất nhuế dã. Nhược phù nghiệp quần thoa sụ phấn đại nhi năng cù  ư quan  lãm công ư trước thuật như Thái, Tạ giả thành tiễn yên. Thị vưu  bất khả  dĩ vô giáo dã. Cố kỳ văn tự chi cật khúc, từ điệu chi thanh  tao, tắc hựu  bất đắc nhi thành tung giả. Khoá chi hạ nhân xuyết thập cổ  chi cách  ngôn dữ quốc ngữ, lý ngữ khả vi giám giới giả liệt vi tứ thập  dư điều,  diễn chi Quốc âm, dĩ vi phụ châm, nhân nhan yên. Duy kì thân  chính bất  lệnh nhi tòng, kỳ thân bất chính như chính nhân hà? Dư ư tự  trị công  thậm sơ, thường dục cải quá nhi vị thành giả, nhi hà dĩ giáo  nhân tai?  ức hựu tự niệm viết: hữu phụ mẫu chi đạo, tư hữu nhất gia chi  trách, tắc  hựu nhất gia chi sở chiêm thị giả. Sử chi tụng nhi tri chi,  độc bất hựu  ngôn giáo hồ? Toại vong kỳ cố lâu, thư dĩ giáo chi, tư vi  nhất gia chi  truyền tập yên nhĩ, châm vân hồ tai. Thị vi tự”).
Ngoài động cơ, mục đích khi viết  Phụ châm  và đôi nét rất kín đáo về tác giả, bài  Nguyên tự  còn cho chúng ta biết:
1. Tên của tác phẩm này (tức bài thứ nhất trong  Gia huấn ca)  là  Phụ châm.
2.  Phụ châm được tác giả sáng tác dựa trên những cách ngôn cổ và những câu ca dao, tục ngữ bằng quốc ngữ.
Vậy ai viết  Phụ châm?  Tiếc rằng bài  Nguyên tự  này không kí tên tác giả. Nhưng bài  Bạt    viết (dịch): “Người đàn bà có ngoan hay không là do ở gia đình và có   quan hệ tới sự thịnh suy của đạo nội trợ. Như vậy thì việc răn dạy không   thể bỏ qua được. Xưa nay, những khuôn mẫu trong chốn buồng the được   diễn thành quốc ngữ, phổ vào luật như  Nữ tắc  của Trần Thị thì   cũng thường có đấy. Nhưng chỉ có Phụ Châm là sáng tác của Yên (An)(13)   Thái Tôn sư. Trong đó các điều về thờ phụng tổ tông, hiếu kính cha mẹ,   theo chồng nuôi con… so với các bài huấn khác thì gọn gàng, sáng sủa và   dễ hiểu hơn cả. Sách này phải để cho chốn khuê môn thuộc lòng mà thấu   hiểu, thì rồi mới có thể giữ được những điều tốt lành cho các nhà phú   gia. Vì thế, ghi vào cuối sách”(14).
Bài Bạt này khẳng định rằng tên tác phẩm là  Phụ châm,  rằng trước  Phụ châm  có nhiều bài ca răn dạy phụ nữ được “diễn thành quốc ngữ, phổ vào âm luật” như  Nữ tắc  của Trần Thị…, nhưng chỉ có  Phụ châm    của Yên Thái Tôn sư là gọnn gàng, sáng sủa và dễ hiểu hơn cả. Vậy Yên   Thái Tôn sư là ai? Một vị thầy tôn kính ở Yên Thái. Yên Thái là ở đâu?   Hà Nội có phường Yên Thái, nhưng Nghệ An cũ, Thanh Hoá, Sơn Tây cũ,  Nam  Định cũ cũng có những địa danh An Thái hoặc Yên Thái…
 Xuyết thập tạp ký. Lược truyện các tác gia  và  Thư mục Hán Nôm - Mục lục tác gia  đều ghi nhận là Lý Văn Phức có viết sách  Xuyết thập tạp ký(15).    Nhưng thực ra, nhà sáng tác hoặc nghiên cứu nào chẳng có trong tay  một  tâp “Nhặt nhạnh ghi chép”( tức “Xuyết thập tạp ký”)? Hiện nay kho  sách  Hán Nôm của Viện Nghiên cứu Hán Nôm có ít nhất 2 tập sách mang tên  là  Xuyết thập tạp ký.   Một sách có kí hiệu là A.1792 gồm vài  câu đối, còn toàn bộ là một tập  thơ, chủ yếu thơ chữ Hán, chưa rõ tác  giả là ai, vì nội dung của sách  không phù hợp với bài tự của Lý Văn  Phức ghi trong tập  Xuyết thập tạp ký   của ông(16). Một sách  khác có kí hiệu là AB.132. Sách này ngay ở trang  đầu có bài tự của tác  giả, ký tên: Vĩnh Thuận Khắc Trai Lý Văn Phức Lân  Chi. Sách này có hai  phần rõ rệt: phần đầu là sưu tập những truyền  thuyết và giai đoạn “chưa  thấy ghi trong dã sử”, đúng như nội dung mà  bài tự của tác giả đã ghi  rõ: phần sau là tập hợp các sáng tác bằng chữ  Nôm của Lý Văn Phức. Phần  thứ hai này hẳn là do người khác biên tập, vì  một dấu vết khá rõ là:  dưới mỗi tác phẩm đều có ghi những dòng chữ kiểu  như “Lý Hồ Khẩu tiên  sinh soạn…”. Về mức độ tin cậy của bản  Xuyết thập tạp ký   có ký  hiệu AB. 132 này, có thể dẫn lời nhận xét về văn bản này được ghi  lại  bằng bút sắt (chưa rõ tên người ghi) trong trang đầu của  Nhị thập tứ hiếu diễn ca:    “Hiệu đính (Nhị thập tứ hiếu diễn ca) căn cứ theo bản AB.132. Bản   AB.132 này có thể là bản sao của các bản thảo cũ của Lý Văn Phức”(17).
 Phụ châm  được chép ở phần cuối sách này, từ 137 đến trang 154, có tên là  Phụ châm tiện lãm. Ngay dưới đầu đề, có dòng chữ “Lý Hồ Khẩu tiên sinh soạn…”.
Tới đây,  Phụ châm  (hay  Cảnh phụ châm,  hay  Phụ châm tiện lãm)    đã được ghi nhận trong một văn bản đáng tin cậy, là do Lý Văn Phức   người làng Hồ Khẩu huyện Vĩnh Thuận, Hà Nôi, soạn thảo. Điều này hoàn   toàn phù hợp với lời bài  Bạt  trong  Cảnh phụ châm,  kí hiệu AB.532, nói rằng  Phụ châm  là tác phẩm của Yên Thái Tôn sư(18).
Viết Phụ châm,   Lý Văn Phức đã thể hiện một khuynh hướng  sáng tác khá rõ nét trong  cuộc đời trước thuật của mình. Vị “Yên Thái  Tôn sư” này, trong thời  gian ngồi dạy trẻ ở Hồ Khẩu, hay Yên Thái, đều  rất quan tâm đến vấn đề  giáo dục nói chung và vấn đề đạo đức nói riêng.  Nhị thập tứ hiếu diễn ca, Phụ châm  và một số tác phẩm Hán, Nôm khác của ông đã được sáng tác theo xu hướng đó. Mặt khác  Phụ Châm  cũng mang những đặc điểm trong sở trường và cả sở đoản của ngòi bút Lý Văn Phức. ở mặt này,  Phụ châm  có một bước tiến so với  Nhị thập tứ hiếu diễn ca    cả về tư tưởng lẫn hình thức ngôn ngữ văn chương. Lý do của bước tiến   này là chính ở cái cội nguồn “ca dao tục ngữ bằng quốc ngữ” mà tác giả   rất có ý thức sưu tầm, chắt lọc như bài  Nguyên tự  đã nói.  Nhưng  có được sự trau dồi về “quốc ngữ” đến mức độ này cũng không thể  một  sớm, một chiều. Phải sau chặng đường đời hẳn là không ít sóng gió,  ngẫm  nghĩ lại cả một “quá trình tự tu dưỡng… rất thiếu xót” của bản  thân, thì  mới có được những “ý tình đôn hậu đáng làm khuôn phép cho  việc giáo  huấn gia đình”(19) qua những câu thơ Nôm khá tự nhiên, thanh  thoát. Vì  thế, chúng tôi cho rằng  Phụ châm  được tác giả viết  vào cuối đời  mình, những năm 40 của thế kỷ trước, sau ngày mất của vị  anh hùng dân  tộc Nguyễn Trãi bốn thế kỷ!
Như vậy, bài ca thứ nhất trong  Gia huấn ca   được Edmond  Nordemann, Quan văn đường và nhiều người khác gắn với tên  tuổi của  Nguyễn Trãi, có các tên gọi “Bài ca dạy vợ dạy con” (bản in  của Quan văn  đường năm 1907), “Cảnh phụ châm”  (Khuyến hiến ca,  sách chép tay, ký hiệu AB.132) là một tác phẩm của Lý Văn Phức, được tác giả chính thức đặt cho cái tên ban đầu là  Phụ châm,  gồm 308 câu thơ Nôm trong tổng số 796 câu của cả sáu bài ca trong  Gia huấn ca.
Vấn đề đặt ra là: vào thời điểm Edmond Nordemann, in  Gia huấn ca,  các bản  Phụ châm  được lưu hành hẳn có  Nguyên tự, Bạt  và nhất là những kí ức về tác giả của nó (Lý Văn Phức) hẳn còn rõ nét trong tầng lớp sỹ phu đương thời, nhưng vì sao  Phụ châm  lại “nhảy vào”chiếm vị trí thứ nhất trong Gia huấn ca của Nguyễn Trãi? Con đường truyền bản của  Phụ châm    có phải như một nhà nghiên cứu đã nói: “Đương thời có lưu hành trong   nhân dân một số bài thơ với đầu đề và tính cách luân lý… của những tác   giả vô danh. Rồi trong sách cũ lại có nói Nguyễn Trãi làm một tập thơ   Nôm nhan đề là  Gia huấn ca,  thì một nhà văn nào đó tưởng rằng những bài thơ kia là tập  Gia huấn ca  của Nguyễn Trãi, nên đã sưu tầm lại, sắp xếp lại cho vào tập rồi đặt cái tên chung  Gia huấn ca”(20)  không? Hay rốt cục, toàn bộ  Gia huấn ca”  cũng chỉ là nguỵ thư như kiểu  Lĩnh Nam dật sử    của Trần Nhật Duật(21)? Đây đúng là hiện tượng “râu ông cằm bà” thường   thấy trong các tác phẩm Hán Nôm, nhưng muốn lý giải đầy đủ và chính  xác  nguyên nhân của sự “nhầm lẫn tai hại” này đối với  Gia huấn ca  nói chung và  Phụ châm    nói riêng, hẳn còn cần các dữ kiện mà bài viết này còn chưa đủ. Trong   điều kiện tư liệu nắm được, dù chưa trả lời đầy đủ câu hỏi được nêu,   chúng tôi cũng xin cung cấp những cứ liệu ban đầu để những ai quan tâm   tới vấn đề có thêm bằng chứng để giải quyết, hoặc dự đoán các khả năng   “có thể” là của ai đối với những bài còn lại.
CHÚ THÍCH
(1) (3) Edmond Nordemann: Nguyễn Chai Da huấn ca. Bản in lần thứ hai, Huế, 1907.
(2)  (4) Lê triều Nguyễn tướng công Gia huấn ca; Quan văn đường  tàng bản,  Thánh Thái Đinh Mùi (1907). Bản của Thư viện Viện Nghiên cứu  Hán Nôm có  ký hiệu AB. 406.
(5) Hoàng Xuân Hãn: Thi văn Việt Nam, Sông Nhị, Hà Nội, 1951.
(5) Thi Nham Đinh Gia Thuyết: Gia huấn ca, Tân Việt, Sài Gòn, 1953.
(7) (8) Nguyễn Hồng Phong: Tìm hiểu Gia huấn ca , Tập san Văn Sử Địa số 27 và 29, tháng 4 và tháng 6 năm 1957.
(9)  Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Cương: Văn học Việt Nam  tập I,  Nxb, Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1978; Thư mục  Hán Nôm -  Mục lục tác gia, bản in rô-nê-ô, 1977.
(10) Đoàn Khoách: Gia huấn ca có phải của Nguyễn Trãi không? Tạp chí Văn học số 1, năm 1982, tr. 56.
(11) Hoàng Xuân Hãn: Sách đã dẫn.
(12) Dương Bá Cung: ức Trai tập tự, Phúc Khê nguyên bản, bản in năm Tự Đức Mậu Thìn, ký hiệu A. 139.
(13) Chữ  安 có hai âm đọc: an hoặc yên.
(14)  Nguyên văn: “Phụ chi hiền phổ, gia chi sở do, nhi thịnh suy  nội trợ  chi hệ. Như thử tắc huấn chi bất khả hốt dã. Cổ lai khổn thức,  diễn chi  Quốc ngữ, hiệp chi âm luật như Trần Thị chi Nữ tắc giả vãng  vãng hữu  chi. Duy phụ châm nãi An Thái Tôn sư sở trước. Tựu trung phụng  tổ tông,  hiếu công cô dữ phù tòng phu dưỡng tử chư điều tỷ chư huấn vưu  vi giản  minh dị hiểu. Tất sử khuê vi trung tụng nhi tri chi, nhiên hậu  khả dĩ  bảo kỳ phú gia chi cát. Nhân lục chi vu tập hậu”.
(15)  Xem Trần Văn Giáp: Lược truyện các tác gia Việt Nam, tập I,  Nxb. Khoa  học xã hội, Hà Nội, 1971, tr. 390, và Thư mục Hán Nôm-Mục lục  tác gia,  tr. 146.
(16) Thư mục Hán Nôm-Mục lục tác gia ghi nhận bản Xuyết thập tạp ký A. 1792 là của Lý Văn Phức.
(17)  Nhị thập tứ hiếu diễn ca đóng trong một tập sách có tên là  Dương Tiết  diễn nghĩa, ký hiệu VHv. 1259, kho sách Hán Nôm, Viện Nghiên  cứu Hán  Nôm.
(18)  Hồ Khẩu và Yên Thái là hai làng liền nhau thuộc tổng Trung,  huyện Vĩnh  Thuận của Hà Nội cũ. Làng Hồ Khẩu, nơi hiện còn đền thờ Lý  Văn Phức,  vẫn được gọi là phố Yên Thái (xem Đương phố Hà Nội của Nguyễn  Vĩnh Phúc  - Trần Huy Bá, Nxb. Hà Nội, 1979, tr. 442).
(19) Đoàn Khoách: Bài đã dẫn.
(20) Nguyễn Hồng Phong: Bài đã dẫn.
(21)  Trên tờ tạp chí Nam phong từ số 48 năm 1921, xuất hiện thiên  tiểu  thuyết lịch sử dài, đăng làm nhiều kỳ, tên là Lĩnh Nam dật sử, đề  là  tác phẩm của Trần Nhật Duật. Đây là một cuốn nguỵ thư mà ít lâu sau  khi  cho đăng, Nguyễn Bá Trác, đồng chủ bút tờ Nam phong, đã phải viết  bài  cải chính (xem Lĩnh Nam dật sử nghi án, Nam phong số 53, 1921).
Nguồn: Tập san Hán Nôm số 1-1984.
*Tác giả Hoàng Văn Lâu đã mất.
Không biết có nên đề nghị TS Nguyễn Xuân Diện đăng "Gia huấn ca" để mọi người cùng được đọc không nhỉ, riêng tôi mặc dù đã đọc, học, làm theo nhiều điều trong "Gia huấn ca" nhưng vẫn muốn đọc lại.
Trả lờiXóaXin được cảm ơn TS.
Cụ ngoại tôi, Pham Văn Điện, sinh năm Giáp Tuất 1874 ở Tùng Ảnh Châu Phong Đức Thọ Hà Tĩnh, mất năm Ất Dậu 1945 cũng ở đó. Sinh thời cụ dậy học khắp tỉnh Hà Đông, cụ đã dùng GIA HUẤN CA để dậy con, dậy cháu và dậy chắt. Tôi bắt đầu tập nói mà đã thuộc GIA HUẤN CA:
Trả lờiXóa"Đặt quyển sách vắt tay nằm nghĩ.
"Con người ta dậy kỹ thì nên.
"Phấn son cũng phải bút nghiên....
Sau này, tôi luôn luôn nhớ lời dậy
Phấn son cũng phải bút nghiên.
Từ lúc còn học chương trình giáo dục lớp 7 vào nam 1973 _tôi đã học thuộc lòng những bài GIA HUAN CA cua NGUYỄN TRÃI _như là bài:Dạy con gái_bài day con thơ! Có thể nào anh Xuan Diện up load len blog cua anh tất cả các bài trong GIA HUẤN CA để dạy cho lớp trẽ đọc và học thuộc được không ah? Xin tri ân ANH!!
Trả lờiXóaMến chào bác "nhớ về KỶ NIỆM". Bác học lớp 7 niên khóa 1973, thế là cùng lớp với tôi rồi. Hic, năm đó tôi học trong nhà dòng, tới bài này thì lơ lơ đãng đãng vì nghĩ mình đi tu thì có vợ con gia đình đâu mà học kỹ làm chi. Sau này "tu hú" thì hối không còn kịp nữa, hu hu. Giờ nhớ lại thấy mình ngốc thiệt: đi tu thì càng phải học thật kỹ Gia Huấn Ca mới là phải đạo chớ!
XóaTôi nghĩ lớp 6 phải học ca dao, lớp 7 trong chương trình phải có Gia Huấn Ca, đó là cách sắp xếp rất hợp tâm lý và rất... "giáo dục". Cứ là cho học sinh học thuộc lòng như thời chị Trần Thanh Vân ý, sau này lớn lên, những lời nằm lòng đó sẽ là những cột trụ vững vàng cho nhân cách.
Xin bác Diện đăng lại Gia Huấn Ca vào blog đi ạ, tôi già rồi nhưng cũng sẽ học lại thật chu đáo.
Tôi cũng đồng ý với bâc Hiền Giang và bác "nhớ về KỶ NIỆM", trong "Gia huấn ca" vẫn còn nhiều điều phù hợp với việc dậy con, dậy cháu và cũng là để gìn giữ gia phong, gìn giữ nét đẹp văn hóa trong gia đình Việt.
Trả lờiXóaBác KTS Trần Thanh Vân nhắc nhở đúng lắm ạ : "Phấn son cũng phải bút nghiên"
Cảm ơn TS Nguyễn Xuân Diện.
Tôi học GHC cách nay đúng 60 năm ( 1952 ) theo chương trình giáo dục VN thời Bảo Đại làm Quốc Trưởng. Lúc đó cũng chỉ biết tác giả GHC là cụ Nguyễn Trãi và sau này cũng đinh ninh là như thế.( Hình như trong cuốn Việt Nam Văn Học Sử của cụ Dương Quảng Hàm trong phần tác giả Nguyễn Trãi thời Hậu Lê không nhắc tói cụ Nguyễn Trãi là tác giả GHC ). Tôi cũng chẳng nhớ trọn vẹn câu nào , chỉ còn nhớ một chút " đừng cho con trẻ chơi lửa chơi dao " . Sau này có gia đình tôi cũng dậy con như thế .
Trả lờiXóa